Nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng IFRS tại doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn TP. HCM

TS. Nguyễn Văn Bảo Thứ ba, 08/04/2025 13:13 (GMT+7)

Nghiên cứu này nhằm mục đích đo lường mức độ tác động của các yếu tố khác nhau đến việc áp dụng giá trị hợp lý (GTHL) trong công tác kế toán tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở TP.HCM. Nghiên cứu thu thập 350 mẫu và sử dụng phương pháp phân tích hồi quy để xác định ảnh hưởng của các yếu tố. Dựa trên kết quả thu được, tác giả đề xuất các kiến nghị để áp dụng GTHL hiệu quả trong công tác kế toán tại các doanh nghiệp.

Tóm tắt: Trước sức ép của yêu cầu hội nhập và cả sức ép của yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường, việc sử dụng giá trị hợp lý (GTHL) ở Việt Nam đã có những bước khởi đầu nhất định, song vẫn cần có một định hướng sử dụng rõ ràng. Nghiên cứu thực hiện, nhằm đo lường mức độ tác động của các nhân tố đến việc áp dụng GTHL trong công tác kế toán của các doanh nghiệp (DN) nhỏ và vừa trên địa bàn TP.HCM. Tác giả đã thu thập 350 mẫu nghiên cứu và sử dụng các kỹ thuật để phân tích hồi quy. Kết quả cho thấy, việc áp dụng GTHL phụ thuộc vào 6 yếu tố theo mức độ ảnh hưởng giảm dần: Văn hóa công ty, Môi trường kinh doanh, Lợi ích DN, Môi trường pháp lý, Vai trò của các tổ chức nghề nghiệp Trình độ chuyên môn nhân viên kế toán. Từ đó, tác giả đề xuất một số kiến nghị nhằm vận dụng GTHL vào công tác kế toán tại các DN.

1. Giới thiệu

Ngày 16/03/2020, Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 345/QĐ-BTC phê duyệt Đề án áp dụng Chuẩn mực báo cáo tài chính (IFRS) tại Việt Nam. Theo đó, sau năm 2025, quy định áp dụng bắt buộc đối với từng nhóm DN thuộc các đối tượng cụ thể dựa trên khả năng sẵn sàng, nhu cầu và tình hình thực tế của DN. Đây vừa là cơ hội vàng để các DN chuyển mình hội nhập quốc tế sâu và rộng, nhưng cũng vừa là khó khăn mà các DN Việt Nam nói chung và SMEs nói riêng phải đối mặt. Bên cạnh đó, sự dịch chuyển của các dòng vốn trong nước và ngoài nước đóng vai trò quyết định trong hiệu quả đầu tư, sản xuất, kinh doanh của DN. Do vậy, lập và trình bày báo cáo tài chính theo IFRS sẽ làm gia tăng niềm tin với nhà đầu tư, thúc đẩy phát triển thị trường vốn, mở rộng quan hệ hợp tác và tăng sức cạnh tranh của DN trên trường quốc tế. Lợi ích là vậy, tuy nhiên IFRS có nhiều tiêu chuẩn khó hơn rất nhiều so với các tiêu chuẩn kế toán hiện tại, hơn nữa việc chuyển đổi cũng tốn kém cả về nguồn lực tài chính lẫn thời gian. Do đó, những nhân tố nào tác động đến mức độ sẵn sàng vận dụng IFRS ở các DN vừa và nhỏ trên địa bàn TP.HCM? Trả lời câu hỏi trên, sẽ giúp cho nhà quản trị DN có thể đẩy nhanh quá trình vận dụng IFRS, tăng lợi thế cạnh tranh và hội nhập quốc tế.

 

2.    Cơ sở lý thuyết và khung nghiên cứu

Trong quá trình hoạt động, tài sản của đơn vị không ngừng vận động, biến đổi cả về hình thái vật chất và lượng giá trị. Để ghi nhận giá trị của tài sản vào chứng từ, sổ sách và báo cáo kế toán cần sử dụng phương pháp tính giá. Tính giá là một phương pháp kế toán để quy đổi hình thức biểu hiện của các đối tượng kế toán từ các thước đo khác nhau về một thước đo chung là sử dụng thước đo tiền tệ để xác định giá trị ghi sổ của các đối tượng cần tính giá theo những nguyên tắc nhất định. Phương pháp tính giá giúp kế toán xác định được giá trị thực tế của tài sản hình thành trong đơn vị, giúp phản ánh các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh vào chứng từ, sổ sách và tổng hợp lên báo cáo kế toán, phương pháp tính giá giúp kế toán tính toán được hao phí và kết quả của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ và tổng hợp được giá trị của toàn bộ tài sản trong đơn vị, giúp công tác quản lý và sử dụng tài sản của DN có hiệu quả. Kế toán giá gốc (Historical cost accounting) dựa trên giá mua quá khứ để ghi nhận các giao dịch và lập báo cáo tài chính. Đây là hệ thống định giá truyền thống đã phát triển nhiều năm, từ khi các kỹ thuật ghi sổ kép của Pacioli ra đời. Kế toán giá gốc ghi nhận theo giao dịch thực tế xảy ra. Do đó, cung cấp bằng chứng để đánh giá người quản lý có hoàn thành trách nhiệm một cách có hiệu quả hay không? Theo mô hình giá gốc, tài sản và nợ phải trả được ghi nhận ban đầu theo giá gốc. Sau thời điểm ghi nhận ban đầu tài sản và nợ phải trả vẫn được trình bày theo giá gốc. Hệ quả của việc ghi nhận theo giá gốc là trong quá trình nắm giữ tài sản và nợ phải trả kế toán không ghi nhận sự biến động về giá thị trường, GTHL,... của tài sản và nợ phải trả này.

Hệ thống kế toán giá gốc ra đời, phát triển song song với thực tiễn kế toán và vẫn giữ vai trò chủ đạo trong thực tiễn kế toán ngày nay. Tuy nhiên, quá trình phát triển các hoạt động giao dịch và đầu tư đã bộc lộ những hạn chế của giá gốc, nhất là trong giai đoạn nền kinh tế thế giới chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của lạm phát. Bên cạnh đó, các lý thuyết quy chuẩn đã thấy được những vấn đề trong nền tảng lý thuyết của giá gốc trong việc phản ánh lợi nhuận và tình hình tài chính của DN dưới các góc độ khác nhau. Các giả định làm nền tảng cho giá gốc bị phê phán là phi hiện thực. Ngoài giả định đơn vị tiền tệ luôn bị thách thức vì lạm phát, giả định về tính hoạt động liên tục cũng bị nghi ngờ. Sterling, (1973) lập luận: “Tỷ lệ phá sản cao của các DN cho thấy, khó có cơ sở bảo vệ cho dự đoán về tính hoạt động liên tục. Không có công ty nào tồn tại một thời gian vô định trong tương lai. Tất cả các công ty đều sẽ phá sản, trừ các công ty tồn tại tại thời điểm hiện tại. Do đó, có lẽ giả định về sự chấm đứt hoạt động thì hợp lý hơn giả định về tính hoạt động liên tục”.

Trong bối cảnh đó, những hệ thống định giá khác nhau đã hình thành và có tác động nhất định đến thực tiễn kế toán và GTHL đã được bàn đến như là hướng đi mới của định giá trong kế toán. GTHL là một thuật ngữ mới trong lĩnh vực kế toán. Giai đoạn hình thành và phát triển của GTHL, có thể chia thành 02 giai đoạn: giai đoạn từ 1960 đến 1990, GTHL bắt đầu xuất hiện và mở rộng phạm vi sử dụng. Trên thế giới, GTHL xuất hiện lần đầu tại Mỹ được đề cập trong báo cáo của Ủy ban nguyên tắc (APB). Sau khi xuất hiện, GTHL tiếp tục được thừa nhận và phạm vi sử dụng của GTHL dần dần được mở rộng. GTHL bắt đầu nhận được sự quan tâm và áp dụng của nhiều nước cũng như Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) được sử dụng trong nhiều lĩnh vực như ngân hàng, viễn thông,… và cũng xuất hiện những hướng dẫn hạn chế về cách xác định và trình bày GTHL trên BCTC; giai đoạn từ 1991 đến nay, GTHL phát triển mạnh mẽ, hàng loạt chuẩn mực của Mỹ: FASB Statement 107 (1991) - GTHL của công cụ tài chính, FASB Statement 104 – hợp nhất DN, FASB Statement 142 – lợi thế thương mại và tài sản vô hình,… các chuẩn mực đã đưa ra những hướng dẫn rõ ràng hơn về GTHL. Năm 2004, dự án hội tụ kế toán IASB – FASB được tiến hành, trong đó có dự án về GTHL trong kế toán.

Tháng 5/2005, Hội đồng Chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) công bố “Văn bản thảo luận về các phương pháp đo lường có sử dụng GTHL”. Theo văn bản này, sự nhất quán GTHL là giá trị trao đổi được các thành viên IASB ủng hộ. Văn bản có đề cập đến định nghĩa “GTHL là giá trị của tài sản hay nợ phải trả có thể trao đổi giữa các bên có hiểu biết, có thiện chí trong một giao dịch trao đổi ngang giá”.  

Tháng 11/2006, IASB và FASB tiến hành thảo luận các vấn đề liên quan đến đo lường GTHL.

Tháng 9/2010, IASB công bố dự thảo và đầu tháng 5/2011, phát hành IFRS 13 – Đo lường GTHL (Fair Value Measurement) có hiệu lực từ ngày 01/01/2013. FASB cũng đã cập nhật chủ đề số 820 (báo cáo số 157 đo lường GTHL – ban hành năm 2006 trước đây của FASB) về GTHL, hoàn thành dự án lớn cải thiện IFRS và US GAAP (các nguyên tắc kế toán được thừa nhận ở Mỹ) mang lại sự hội tụ giữa chúng.

Theo IFRS 13, GTHL là “Giá trị sẽ nhận được khi bán một tài sản hoặc thanh toán một khoản nợ phải trả trong một giao dịch thị trường có trật tự giữa các bên tham gia thị trường tại ngày đo lường”. IFRS 13 quy định khi xác định GTHL, DN phải giả định rằng giao dịch để định giá diễn ra trong điều kiện thị trường của tài sản hoặc nợ phải trả, bao gồm giả định về rủi ro hoặc trong một thị trường thuận lợi nhất. IFRS 13 đã cung cấp một định nghĩa chính thức và nhất quán về GTHL, thống nhất phương pháp đo lường, giảm mức độ phức tạp và yêu cầu công bố thông tin để sử dụng trong hệ thống chuẩn mực BCTC quốc tế nhằm cung cấp thông tin hữu ích, đầy đủ và đa dạng cho các đối tượng sử dụng.

Khái niệm về GTHL được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trên thế giới. Tuy nhiên, tại Việt Nam, khái niệm này vẫn còn mới và chưa có những hướng dẫn, quy định rõ ràng, cụ thể trong một chuẩn mực riêng. Theo Luật Kế toán Việt Nam số 88/2015/QH13: “GTHL là giá trị được xác định phù hợp với giá thị trường, có thể nhận được khi bán một tài sản hoặc chuyển nhượng một khoản nợ phải trả tại thời điểm xác định giá trị”. Mặc dù, đã được quy định trong Luật Kế toán nhưng GTHL vẫn chưa thật sự được áp dụng trong việc ghi nhận của kế toán, chưa có một phương pháp ghi nhận GTHL cụ thể. Vì thế, vai trò của GTHL vẫn còn khá mờ nhạt.

Chea, A. C, (2011) đã tổng hợp sự phát triển của GTHL theo FAS 157 và ảnh hưởng của nó lên BCTC trên các khía cạnh tính thích hợp và độ tin cậy, tính xác thực và việc trình bày trên BCTC. Ngoài ra, tác giả cũng trình bày các quan điểm xung quanh việc sử dụng GTHL và đưa ra các kiến nghị trong việc nâng cao sự hữu ích của việc sử dụng GTHL.

Theo Christopher Nobes và Robert Parker, (1995) việc hệ thống kế toán quốc gia hội nhập vào chuẩn mực kế toán quốc tế IAS/IFRS sẽ bị tác động bởi các yếu tố: hệ thống pháp luật, nguồn tài chính, chính sách thuế, vai trò của các tổ chức nghề nghiệp, lạm phát và các biến cố ngẫu nhiên.

Theo Brenson, J., và Alia, M., J., (2011) các yếu tố tác động đến hệ thống kế toán quốc gia khi hội nhập vào các chuẩn mực kế toán quốc tế, bao gồm: môi trường kinh tế, môi trường chính trị, môi trường pháp lý và thuế, môi trường kinh doanh, môi trường chuyên nghiệp, môi trường văn hóa, môi trường giáo dục và môi trường quốc tế.

Tại Việt Nam, Nguyễn Tuấn Duy, (2021) đã nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng GTHL trong công tác kế toán ở các công ty chứng khoán Việt Nam. Dữ liệu nghiên cứu được thu thập từ báo cáo tài chính và báo cáo thường niên của 23 CTCK niêm yết ở Việt Nam, từ 2016 - 2019. Kết quả nghiên cứu cho thấy, có 4 nhân tố (tổng tài sản, số năm niêm yết, số lượng công ty con, tình trạng niêm yết) tác động đến việc áp dụng GTHL, trong tổng số 13 nhân tố đưa vào nghiên cứu.

Trên cơ sở mô hình nhiên cứu của Christopher Nobes và Robert Parker, (1995) và Brenson, J., và Alia, M., J. (2011), kết hợp với kết quả nghiên cứu thông qua tổng quan tài liệu, tác giả đề xuất mô hình nghiên cứu về định hướng áp dụng GTHL trong công tác kế toán tại các DN trên địa bàn TP.HCM gồm 06 nhân tố, đó là: Môi trường pháp lý, Môi trường kinh doanh, Văn hóa công ty, Trình độ chuyên môn nhân viên kế toán, Vai trò của các tổ chức nghề nghiệp, và Lợi ích DN.

Nghiên cứu chính thức thông qua phương pháp điều tra bằng bảng câu hỏi khảo sát được gửi đến các nhà quản trị ở các DN trên địa bàn TP.HCM thông qua đường link “Google.doc”, nhằm thu thập dữ liệu sơ cấp, phân tích dữ liệu, kiểm định thang đo và mô hình nghiên cứu. Dữ liệu thu được sẽ được mã hóa và đánh giá độ tin cậy của thang đo bằng hệ số Cronbach’s alpha để loại đi những biến có độ tin cậy thấp. Bước kế tiếp, những biến phù hợp với phân tích Cronbach’s alpha sẽ tiếp tục được đưa vào phân tích nhân tố khám phá EFA nhằm mục đích hiệu chỉnh lại mô hình nghiên cứu. Cuối cùng, với mô hình đã được hiệu chỉnh thông qua phân tích nhân tố, các thành phần mới sẽ được sử dụng để kiểm định thang đo, kiểm định mô hình bằng hồi quy tuyến tính bội, kiểm định T-test và ANOVA để xem mỗi thành phần có tác động như thế nào đến vấn đề nghiên cứu.

1. Kết quả nghiên cứu

Mẫu nghiên cứu là các nhà quản trị ở các DN trên địa bàn TP.HCM. Kết quả thu được 350 phiếu trả lời hợp lệ và được phân loại theo các chỉ tiêu: giới tính, trình độ học vấn, nghề nghiệp và số năm công tác. Kết quả cho thấy, trong số đối tượng được hỏi 25% có trình độ học vấn từ đại học trở lên, 100% đều là CEO, CFO hoặc là kế toán trưởng, 100% đều có kinh nghiệm làm việc tại công ty từ 2 năm trở lên trong đó 74% từ 4 năm trở lên, điều này cho thấy là kết quả trả lời đảm bảo độ tin cậy để sử dụng phân tích.

Các biến trong nghiên cứu được tổng hợp và ký hiệu trình bày trong Bảng 1.

Bảng 1: Bảng tổng hợp thang đo các biến trong nghiên cứu

Biến nghiên cứu Ký hiệu và thang đo
Môi trường pháp lý PL1, PL2, PL3, PL4, PL5
Môi trường kinh doanh KD1, KD2, KD3, KD4, KD5
Văn hóa công ty VH1, VH2, VH3, VH4
Trình độ chuyên môn nhân viên kế toán CM1, CM2, CM3, CM4
Vai trò của các tổ chức nghề nghiệp VT1, VT2, VT2, VT4, VT5
Lợi ích DN LI1, LI2, LI3
Biến phụ thuộc: Áp dụng GTHL trong công tác kế toán GTHL1, GTHL2, GTHL3

(Nguồn: tác giả tự tổng hợp)

Đánh giá độ tin cậy thang đo

Nghiên cứu đã tiến hành đánh giá độ tin cậy của bảy thang đo, với 29 biến quan sát. Kết quả phân tích cho thấy, tất cả các thang đo đều thỏa mãn hệ số Cronbach’s Alpha > 0.6, các biến quan sát đều có hệ số tương quan biến tổng> 0.3, ngoại trừ biến CM3 của thang đo “Trình độ nhân viên kế toán” có Hệ số Cronback’s Alpha có biến thành phần (0,828) > Cronback’s Alpha biến tổng (0,818), nên biến này bị loại ra khỏi mô hình nghiên cứu, 28 biến quan sát còn lại tiếp tục được sử dụng trong phân tích nhân tố khám phá EFA.

Phân tích nhân tố khám phá EFA

Kết quả phân tích nhân tố khám phá (EFA) cho biến độc lập thông qua kiểm định Bartlett và KMO cho thấy, kiểm định Bartlett’s có giá trị là 2425.1418 với mức ý nghĩa Sig. bằng 0,000 (< 0,05), bác bỏ giả thuyết các biến quan sát của biến độc lập không tương quan với nhau trong tổng thể. Như vậy, giả thuyết về mô hình nhân tố là không phù hợp sẽ bị bác bỏ. Điều này chứng tỏ, dữ liệu dùng để nghiên cứu là hoàn toàn phù hợp. KMO có giá trị là 0.737 (< 0,5), kích thước mẫu nghiên cứu là 350, do đó dữ liệu nghiên cứu phù hợp với phân tích EFA. Phân tích yếu tố khám phá EFA 06 biến quan sát của biến phụ thuộc (Bảng 2) cho thấy, dữ liệu nghiên cứu hoàn toàn phù hợp để thực hiện hồi quy tuyến tính đa biến.

Bảng 3 cho thấy, các nhân tố đều có giá trị Eigenvalues > 1, thấp nhất là 1.235 với phương sai trích 63.320 % > 50% là đạt yêu cầu. Với phương pháp rút trích Principal components và phép quay Varimax, có 06 thành phần được rút trích ra từ biến quan sát. Điều này cho chúng ta thấy, 06 thành phần rút trích ra thể hiện được khả năng giải thích được 63.32% sự thay đổi của biến phụ thuộc trong tổng thể.

Trong đề tài nghiên cứu có 1 biến phụ thuộc “Áp dụng GTHL trong công tác kế toán” với 3 biến quan sát. Kết quả phân tích EFA cho thấy, tất cả các điều kiện về phân tích nhân tố khám phá đều đáp ứng, hệ số KMO = 0.803 > 0.5 ; Sig. = 0,000 < 0.05; hệ số tải nhân tố > 0.5 (Bảng 4); giá trị trích Eigenvalue > 1 và tổng phương sai trích đạt khá cao 72.146 % (Bảng 5).

Phân tích quy hồi đa biến

(Nguồn: phân tích dữ liệu)

Trong Bảng 6 ta thấy, các hệ số VIF của tất cả các biến đều nhỏ hơn 10, chứng tỏ mô hình không bị đa cộng tuyến. Đồng thời, giá trị của thống kê D (Durbin-Watson) bằng 2.060 – giá trị này nằm trong khoảng từ 1 đến 3, chứng tỏ không có hiện tượng tự tương quan giữa các biến. Ngoài ra, khi xét tstat và tα/2 của các biến để đo độ tin cậy thì các biến độc lập: PL, KD, VH, CM, VT, LI đều đạt yêu cầu do |tstat|> 2 (nhỏ nhất là 3.751) và các giá trị Sig. của các biến này đều thể hiện độ tin cậy khá cao, đều < 0.05 (lớn nhất là 0.00). Như vậy, kết quả chỉ ra các biến độc lập đưa vào nghiên cứu đều thỏa mãn tất cả các giả định cho mô hình hồi quy. Do đó, có thể dùng để giải thích cho sự tác động của các biến này đến việc áp dụng GTHL trong công tác kế toán tại các DN trên địa bàn TP.HCM. Hệ số R2 hiệu chỉnh (Adjusted Square) trong mô hình này là 0.746, nghĩa là mô hình hồi quy tuyến tính đã xây dựng phù hợp với tập dữ liệu đến mức 74.6 %. Điều này cũng có nghĩa là, có 74.6% sự biến thiên của việc áp dụng GTHL trong công tác kế toán tại các DN trên địa bàn TP.HCM, được giải thích chung bởi 6 biến độc lập trong mô hình.

Mô hình hồi quy có dạng, như sau:

GTHL = 0.406*VH + 0.350*KD + 0.333*LI + 0.265*PL + 0.238*VT + 0.136CM

Như vậy, thông qua kết quả nghiên cứu trên, khẳng định việc áp dụng GTHL trong công tác kế toán tại các DN trên địa bàn TP.HCM chịu ảnh hưởng cùng chiều bởi 06 nhân tố, theo thứ tự giảm dần lần lượt là: (1) Văn hóa công ty; (2) Môi trường kinh doanh; (3) Lợi ích DN; (4) Môi trường pháp lý; (5) Vai trò của các tổ chức nghề nghiệp; và (6) Trình độ chuyên môn nhân viên kế toán.

 

1.    Kết luận và hàm ý chính sách

Trên cơ sở lý thuyết về cơ sở tính giá trong kế toán và GTHL, kết hợp với xu thế hội nhập hiện nay, nghiên cứu tập trung xây dựng bảng câu hỏi và tiến hành khảo sát 350 đối tượng là các nhà quản trị ở các DN trên địa bàn TP.HCM nhằm tiến hành kiểm định các mục tiêu nghiên cứu. Từ kết quả phân tích hồi quy cho thấy, việc áp dụng GTHL trong công tác kế toán tại các DN trên địa bàn TP.HCM phụ thuộc vào 6 yếu tố theo mức độ ảnh hưởng, được thể hiện như sau: VH (β = 0.406), KD (β = 0.350), LI (β = 0.333), VT (β = 0.238)  và CM (β = 0.136). Như vậy, thang đo của các biến độc lập và phụ thuộc đều đạt giá trị hiệu dụng và tin cậy, mô hình nghiên cứu phù hợp với dữ liệu. Từ đó, tác giả đưa ra một số đề xuất nhằm vận dụng GTHL vào công tác kế toán tại các DN như sau:

Cần phải ban hành thành một hệ thống văn bản pháp luật cụ thể. Trên cơ sở Luật Kế toán, các cơ quan liên quan cần ban hành hướng dẫn áp dụng GTHL, chuẩn hoá các định nghĩa GTHL, nguyên tắc, tiêu chí, điều kiện để xác định các loại tài sản được đưa vào danh mục tài sản được điều chỉnh theo GTHL, cơ sở xác định GTHL, phương pháp kế toán theo GTHL, những nội dung, phạm vi các thông tin cần công bố trên BCTC. Tiếp tục và hoàn thiện việc ban hành các chuẩn mực còn thiếu, đặc biệt là cần ban hành chuẩn mực đo lường GTHL phù hợp với điều kiện áp dụng GTHL theo IFRS 13. Tăng cường các giải pháp để tăng tính minh bạch của thông tin được công bố trên BCTC, cho phép DN sử dụng các xét đoán chủ quan trong lập BCTC. Bổ sung quy định xử phạt hành chính đối với các trường hợp chênh lệch số liệu trên BCTC trước và sau kiểm toán.

Để GTHL thực sự tồn tại, phải có một môi trường kinh doanh phù hợp. Việc gia nhập vào các tổ chức thương mại quốc tế không những giúp Việt Nam gia tăng vị thế trên trường quốc tế, mà còn mang lại cho Việt Nam rất nhiều lợi ích trong việc hòa hợp với chuẩn mực BCTC quốc tế trên lĩnh vực kế toán GTHL. Do vậy, cần từng bước hoàn chỉnh một hệ thống thị trường hoạt động; đồng bộ và minh bạch hóa hành lang pháp lý về kinh doanh. Thị trường hàng hóa và thị trường tài chính Việt Nam phải được xây dựng ngày càng đồng bộ, hoàn thiện để đáp ứng nhu cầu tìm kiếm các dữ liệu tham chiếu trong đo lường GTHL.

Hiện nay, các trường đại học đóng góp rất nhiều trong công cuộc xây dựng và hình thành hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam nói chung và chuẩn mực kế toán GTHL nói riêng. Tuy nhiên, vai trò của nhà trường trong quá trình này cần được nâng lên một mức cao hơn nữa bằng cách thành lập các nhóm nghiên cứu khoa học, tổ chức hội thảo chuyên đề. Bên cạnh đó, cần thay đổi công tác đào tạo kế toán ở các trường như: thay đổi căn bản giáo trình về kế toán, trong đó nên lấy chuẩn mực kế toán là nền tảng thay vì chi tiết quá nhiều nghiệp vụ như hiện nay; xây dựng lộ trình, từng bước chuyển dần từ giảng dạy bám vào chế độ và chuẩn mực sang giảng dạy các vấn đề khoa học, hoàn toàn mang tính chất khách quan, phù hợp với thông lệ quốc tế. Đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ trong giảng dạy chuyên ngành kế toán là một giải pháp nâng cao khả năng tiếp thu được khối lượng kiến thức kế toán quốc tế khổng lồ, quý báu đến từ các tổ chức kế toán quốc tế trong đó có kế toán GTHL.