Phân tích phương thức công bố thông tin phát triển bền vững tại doanh nghiệp

ThS. Trần Kim Ngân Trường Đại học Trà Vinh; TS. Hồ Tuấn Vũ Trường Kinh tế và Kinh doanh - Đại học Duy Tân; PGS.TS. Nguyễn Hồng Hà Trường Kinh tế, Luật - Trường Đại học Trà Vinh Thứ năm, 16/10/2025 11:51 (GMT+7)

Trong bài viết này, tác giả hệ thống hóa, phân tích và đánh giá các nghiên cứu đã được thực hiện có liên quan đến CBTT PTBV, mối liên hệ và nhân tố tác động đến CBTT PTBV ở Việt Nam.

1. Đặt vấn đề

Trong bối cảnh Việt Nam, việc CBTT PTBV chưa thật sự phổ biến, hay chưa được quy định rõ ràng đối với tất cả các DN. Sự cần thiết về vấn đề này được DN nhận ra rõ ràng hơn khi có Thông tư số 155/2015/TT-BTC ngày 06/10/2015. Một hoạt động tiêu biểu về thực hiện PTBV tại Việt Nam có thể kể đến khi Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HoSE) ra mắt Chỉ số PTBV Việt Nam (VNSI) vào năm 2017. Trong số các công ty niêm yết trên sàn HoSE có 20 công ty có điểm số PTBV cao nhất, đáng chú ý nhất là Vinamilk là một trong những DN có sự cam kết rõ ràng về chiến lược đầu tư vào CBTT theo chủ đề môi trường, xã hội, và quản trị (Cao Minh Tiến, 2022). Cho đến năm 2021, sau khi hướng dẫn CBTT về phát thải khí nhà kính, các DN niêm yết trên thị trường chứng khoán (TTCK) đã từng bước cải thiện nội dung trong CBTT liên quan đến yếu tố PTBV (Bộ Tài Chính, 2020). Vì thực tế, khi nghiên cứu về trạng thái sẵn sàng, nhiều DN tại Việt Nam vẫn chưa thực sự hiểu rõ và áp dụng đầy đủ các báo cáo môi trường, xã hội và quản trị, điều này dẫn đến thiếu minh bạch trong hoạt động (PwC & VIOD, 2022). Việt Nam đã bắt đầu tích hợp các yếu tố PTBV trong chính sách và chiến lược phát triển, nhưng việc áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế về CBTT PTBV còn hạn chế. Nhu cầu về CBTT PTBV được chú ý hơn có Nghị định 06/2022/NĐ-CP ngày 07/01/2022 quy định các lĩnh vực liên quan thực hiện kiểm kê phát thải khí nhà kính (Chính Phủ, 2022). Một số DN khác được nêu gương trong CBTT PTBV với nội dung phong phú và đầy đủ như Tập đoàn Bảo Việt, Công ty Cổ phần FPT, Tập đoàn VinGroup,… (Phan Thị Đỗ Quyên & Trần Thị Thanh Thảo, 2024). Sự quan tâm nhiều hơn và tính cấp thiết trong thực thi tăng hơn khi Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số 13/2024/QĐ-TTg ngày 13/08/2024, chi tiết số lượng cơ sở cần được kiểm kê khí nhà kính (Thủ tướng Chính phủ, 2024). Mặc dù có sự thay đổi nhận thức, và phần lớn chính sách chú trọng vào các DN niêm yết, sự hỗ trợ để thực hiện CBTT PTBV nên áp dụng cho tất cả loại hình tổ chức.

Việc thực hiện CBTT PTBV của các DN tại Việt Nam chưa mang tính bắt buộc, chủ yếu triển khai trên tinh thần tự nguyện. Vì thế, chủ đề về CBTT PTBV vẫn còn hạn chế và đa phần các nghiên cứu đã tiếp cận theo hướng tìm hiểu chung về thực trạng, việc áp dụng và cách thức tiếp cận. Chẳng hạn như nghiên cứu tổng quan về sự hình thành và phát triển của báo cáo PTBV (Trịnh Quý Trọng, 2021). Một số nghiên cứu tập trung trong phạm vi các DN niêm yết trên TTCK Việt Nam, cụ thể có nghiên cứu lồng ghép giữa CBTT trách nhiệm xã hội cùng (TNXH) với PTBV (Đặng Ngọc Hùng & cộng sự, 2018), nghiên cứu khả năng công bố báo cáo PTBV (Trịnh Hữu Lực & Tăng Thành Phước, 2019), nghiên cứu mối quan hệ giữa CBTT PTBV và hiệu quả tài chính (Nguyễn Văn Linh & cộng sự, 2021) hoặc chú ý đến mức độ CBTT PTBV trong mối quan hệ với chất lượng thông tin kế toán và hiệu quả hoạt động (Nguyễn Thị Thu Nguyệt, 2021).

Một số tác giả khác tập trung nghiên cứu về CBTT PTBV tập trung cho từng lĩnh vực. Ví dụ, nghiên cứu đã đề cập đến các nhân tố ảnh hưởng đến công bố báo cáo PTBV tại các công ty kinh doanh xăng dầu (Lê Anh Tuấn, 2022) và gần đây nhất, là xem xét tác động hiệu quả hoạt động của DN khai thác, chế biến thủy sản khi công bố CBTT PTBV (Nguyễn Thị Thanh Trầm, 2024). Do đó, bài viết này chú trọng hệ thống hóa, phân tích và đánh giá các nghiên cứu đã thực hiện có liên quan đến CBTT PTBV, vai trò của CBTT PTBV và các nhân tố tác động đến việc CBTT PTBV của các tác giả tại Việt Nam. Qua quá trình khảo lược các nghiên cứu, bài viết này dự kiến tìm ra hướng nghiên cứu về CBTT PTBV trong tương lai và cũng chính là mục tiêu nghiên cứu và tính cấp thiết của bài viết này.

2. Các nghiên cứu về có liên quan đến CBTT PTBV của các tác giả ở Việt Nam

2.1. Các nghiên cứu về sự hình thành, phát triển và thực trạng của việc CBTT PTBV tại Việt Nam

Một số nghiên cứu mô tả với mục đích trình bày tổng quan về quá trình hình thành và xu hướng nghiên cứu thông tin PTBV (Nguyễn Thị Thu Nguyệt, 2021); làm rõ khái niệm của việc CBTT PTBV và thực hiện việc công bố theo khuôn mẫu báo cáo PTBV theo Bộ chuẩn mục Báo cáo PTBV (GRI – Global Reporting Initiative) (Trịnh Quý Trọng, 2021) hay đo lường trạng thái sẵn sàng của DN trong CBTT PTBV (PwC & VIOD, 2022). Nghiên cứu của Phùng Thị Thu Hương (2024) cũng chú trọng hướng dẫn CBTT PTBV theo tiêu chuẩn GRI đồng thời bàn luận đến một tiêu chuẩn quốc tế khác – SASB (Sustainability Accounting Standards Board). Các nghiên cứu xem xét tổng quát về tình hình thực hiện CBTT PTBV của các DN trên phạm vi cả nước (PwC & VIOD, 2022; Phan Thị Đỗ Quyên & Trần Thị Thanh Thảo, 2024) hoặc cụ thể trình bày thực trạng quy mô trong của tỉnh thành, trong phạm vi hẹp chưa có nhiều DN thực hiện CBTT PTBV (Nguyễn Văn Hương & Lê Thị Thanh Huệ, 2024). Nghiên cứu của Phan Thị Đỗ Quyên & Trần Thị Thanh Thảo (2024) và Nguyễn Văn Hương & Lê Thị Thanh Huệ (2024) đều đề ra các khuyến nghị về nhu cầu hệ thống pháp lý rõ ràng hoặc thúc đẩy DN tham vấn các bên có liên quan, nâng cao nhận thức về CBTT PTBV và tích hợp mục tiêu PTBV trong chiến lược phát triển.

Một nghiên cứu khác chú trọng đối sánh việc CBTT PTBV theo các khuôn mẫu khác nhau như GRI, tiêu chuẩn SASB, mục tiêu SDGs, và công bố CDP, từ đó khuyến nghị tới các bên liên quan cần có khuôn khổ pháp lý, sự cam kết của lãnh đạo công ty,… để nâng cao chất lượng thông tin PTBV (Phi Hải Yến, 2024).

2.2. Các nghiên cứu về CBTT PTBV tại các đơn vị cụ thể

Một nghiên cứu điển hình trong gần 300 DN niêm yết trên HoSE đã xem xét nhóm nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT TNXH, PTBV của Đặng Ngọc Hùng & cộng sự (2018). Đề tài này đã tập trung nghiên cứu, thiết kế và đánh giá sự tác động của các nhân tố bao gồm khả năng sinh lời, quy mô DN, đòn bẩy tài chính, kiểm toán độc lập, số lượng thành viên hội đồng quản trị (HĐQT) và chủ tịch HĐQT kiêm tổng giám đốc, tại Hình 1. Kết quả cho thấy, mức độ CBTT PTBV của các công ty niêm yết này còn thấp (<40%) và chịu sự tác động tích cực từ khả năng sinh lời, quy mô DN và kiểm toán độc lập.

Hình 1. Mô hình các nhân tố tác động đến mức độ CBTT TNXH, PTBV của các DN niêm yết tại Việt Nam

Nguồn: Đặng Ngọc Hùng & cộng sự (2018)

Nghiên cứu của Trịnh Hữu Lực & Tăng Thành Phước (2019) đã tìm thấy mối liên hệ giữa các yếu tố gồm lợi nhuận, quy mô, lĩnh vực hoạt động và cơ hội phát triển với việc CBTT PTBV. Các tác giả đã phân tích mức độ tác động tích cực của quy mô DN, lĩnh vực hoạt động và cơ hội phát triển đến mức động công bố báo cáo PTBV trong 141 DN có niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam, tại Hình 2.

Ngoài ra, khi DN theo CBTT PTBV chiếm được niềm tin của các bên liên quan như nhà đầu tư hoặc công chúng, củng cố hình ảnh thương hiệu của mình trong quá trình tiếp cận tới người tiêu dùng.

Hình 2. Mô hình các yếu tố tác động đến việc công bố báo cáo PTBV - Trường hợp các DN tại Việt Nam

Nguồn: Trịnh Hữu Lực & Tăng Thành Phước (2019)

Với mục tiêu khám phá lý do tại sao 100 công ty hàng đầu đã niêm yết trên TTCK Việt Nam thực hiện CBTT PTBV trong báo cáo thường niên của mình. Nhóm tác giả đã đề xuất mô hình gồm 5 nhân tố liên quan đến quy mô DN, tính nhạy cảm của ngành, quyền sở hữu vốn của nhà nước, tính thanh khoản, và độ tuổi DN (Nguyen & cộng sự, 2021). Kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ CBTT PTBV có mối liên hệ tích cực với nhóm yếu tố về đặc điểm DN (quy mô, tính thanh khoản, quyền sở hữu của nhà nước và tính nhạy cảm của ngành nghề với môi trường). Hiệu quả tài chính của DN, theo khía cạnh đo lường bằng tỷ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA) và tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE), được cải thiện theo hoạt động CBTT PTBV.

Hình 3. Mô hình khuôn mẫu lý thuyết về các nhân tố tác động đến việc CBTT PTBV

Nguồn: Nguyen & cộng sự (2021)

Cũng trong phạm vi nghiên cứu các DN Việt Nam niêm yết trên TTCK, các tác giả đã chỉ ra mức độ CBTT PTBV còn khá thấp (Nguyen Van Linh & cộng sự, 2019). Trong nghiên cứu này các yếu tố được xác định gồm hiệu quả kinh doanh, quy mô DN, kiểm toán độc lập và số lượng thành viên hội đồng quản trị, có tác động tích cực đến mức độ CBTT PTBV. Ngoài ra, mức độ công bố có mối quan hệ ngược chiều với hai nhân tố tác động khác gồm đòn bẩy tài chính và lĩnh vực kinh doanh.

Hình 4. Mô hình nghiên cứu tác động của hiệu quả kinh doanh đến mức độ CBTT PTBV

Nguồn: Nguyen Van Linh & cộng sự (2019)

Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Nguyệt (2021) đề xuất cách tiếp cận khuôn mẫu Bộ Chuẩn mực GRI có điều chỉnh cho phù hợp với bối cảnh Việt Nam dựa trên xem xét sự ảnh hưởng của chất lượng thông tin kế toán đến mức độ CBTT PTBV trong DN niêm yết tại Việt Nam. Kết quả thống kê cho thấy, CBTT PTBV tại Việt Nam được đánh giá ở mức điểm thấp, dưới mức cơ bản, và các DN vẫn chú trọng CBTT kinh tế hơn là các thông tin thuộc về môi trường và xã hội. Kết quả kiểm định ảnh hưởng của chất lượng thông tin kế toán đến mức độ CBTT PTBV. Dựa trên mẫu nghiên cứu gồm 262 công ty niêm yết tại Việt Nam năm 2018, nghiên cứu đã tìm thấy được bằng chứng về ảnh hưởng của chất lượng thông tin kế toán thông qua mức độ thận trọng đến mức độ CBTT PTBV. Đồng thời tác giả phân tích tác động của mức độ CBTT PTBV đến hiệu quả hoạt động của DN thông qua quy mô, đòn bẩy tài chính, dòng tiền hoạt động kinh doanh.

Hình 5. Mô hình nghiên cứu về ảnh hưởng của chất lượng kế toán đến mức độ CBTT PTBV của các công ty niêm yết trên TTCK Việt Nam

Nguồn: Nguyễn Thị Thu Nguyệt (2021)

Nghiên cứu của Nguyễn Văn Linh (2022) về “Nghiên cứu mối quan hệ giữa CBTT PTBV và hiệu quả tài chính của các DN niêm yết trên TTCK Việt Nam”, đã phân tích khá toàn diện mối quan hệ hai chiều giữa CBTT PTBV với hiệu quả tài chính. Ngoài ra, một đề xuất mô hình CBTT PTBV theo khuôn mẫu GRI 4 dành cho các DN niêm yết trên TTCK Việt Nam. Tác giả đã tiếp tục dựa vào một số nhân tố ảnh hưởng đến CBTT PTBV từ các nghiên cứu trước và bổ sung thêm nhân tố pháp luật được cho là có tác dụng thúc đẩy hoạt động CBTT PTBV trong môi trường nói trên.

Hình 6. Mô hình nghiên cứu mối quan hệ giữa CBTT PTBV và hiệu quả tài chính của các DN niêm yết trên TTCK Việt Nam

Nguồn: Nguyễn Văn Linh (2022)

Nghiên cứu của Lê Anh Tuấn (2022) về “Các nhân tố ảnh hưởng đến công bố báo cáo PTBV tại các công ty kinh doanh xăng dầu thuộc Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam”, với mục tiêu xác định các yếu tố ảnh hưởng đến việc công bố báo cáo PTBV tại các công ty kinh doanh xăng dầu thuộc Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam dựa trên nhận thức của các nhà quản lý. Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu hỗn hợp để xây dựng và kiểm tra mô hình lý thuyết; kiểm tra các giả thuyết được đưa ra bằng cách sử dụng phần mềm dữ liệu SPSS 22 và AMOS 20. Với kích thước mẫu là 265, bao gồm các nhà quản lý cấp cao tại các công ty, kết quả công trình nghiên cứu cho thấy các yếu tố như quy mô DN, cơ hội tăng trưởng, quy định pháp lý, đặc điểm kinh doanh và khả năng sinh lời ảnh hưởng đến hướng công bố báo cáo PTBV. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng cho thấy rằng quan điểm của nhà quản lý không ảnh hưởng đến việc CBTT PTBV trong các công ty thuộc Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam.

Hình 7. Mô hình nghiên cứu đề xuất về Các nhân tố ảnh hưởng đến công bố báo cáo PTBV tại các công ty kinh doanh xăng dầu thuộc Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam

Nguồn: Lê Anh Tuấn (2022)

Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Nguyệt & Trần Thị Thanh Hải (2023) về “Ảnh hưởng của áp lực các bên liên quan đến mức độ CBTT PTBV” của các công ty niêm yết trong bảng xếp hạng 500 DN lớn nhất (VNR 500) đề cập đến điều kiện môi trường, các bên liên quan bao gồm khách hàng, nhà đầu tư và nhân viên. Nhóm tác giả nhận định trong số các bên liên quan, người tiêu dùng và nhân viên thể hiện sự quan tâm nhiều hơn đến thông tin môi trường từ đó có tác động đến áp lực phải CBTT PTBV cho DN.

Tương quan với xu hướng nghiên cứu của thế giới, nghiên cứu của Dương Hoàng Ngọc Khuê & Lê Bảo Quyên (2023) chú trọng đến mối liên hệ giữa hoạt động CBTT PTBV với hiệu quả quả tài chính. Các tác giả đã xem xét trong phạm vi 17 ngân hàng thương mại cổ phần niêm yết trên TTCK Việt Nam và kiểm định mối liên hệ giữa bằng phương pháp định lượng với mô hình hồi quy OLS. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng hoạt động CBTT tài chính này có tác động tích cực hiệu quả hoạt động theo khía cạnh tài chính. Nhóm tác giả sử dụng các biến kiểm soát như về quy mô, thời gian hoạt động, tỷ lệ cho vay trên tiền gửi và tỷ lệ nợ xấu để thu thập dữ liệu gồm 102 quan sát trong phạm vi nghiên cứu.

Nhóm tác giả Lê Thị Thu Huyền & cộng sự (2023) đề xuất mô hình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến CBTT PTBV theo hướng trách nhiệm xã hội. Nghiên cứu đưa ra các giả thuyết rằng quy mô DN, lĩnh vực ngành nghề, yêu cầu của pháp lý và quy định, kỳ vọng của các bên liên quan, chiến lược kinh doanh và văn hóa DN sẽ có ảnh hưởng thuận chiều đến mức độ CBTT.

Hình 8. Mô hình đề xuất nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ CBTT PTBV theo hướng trách nhiệm xã hội

Nguồn: Lê Thị Thu Huyền & cộng sự (2023)

Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Trầm (2024) về “Tác động CBTT PTBV đến hiệu quả hoạt động của các DN khai thác, chế biến thủy hải sản vùng duyên hải miền Trung – Việt Nam” phân tích thực trạng CBTT PTBV trong chuỗi giá trị khai thác, và chế biến thủy hải sản từ đó đã xác định được các nhân tố tác động đến CBTT PTBV của các DN khai thác, chế biến thủy hải sản vùng duyên hải miền Trung gồm: áp lực các bên liên quan, chiến lược PTBV chủ động, cam kết của nhà quản lý hàng đầu của DN. Trong đó nhân tố có mức tác động mạnh nhất là chiến lược PTBV chủ động. Ngoài ra nghiên cứu cũng tìm thấy mối quan hệ tích cực giữa CBTT PTBV và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiêp khai thác, chế biến thủy hải sản vùng duyên hải miền Trung. Tác giả còn xem xét về mức độ CBTT PTBV càng cao thì hiệu quả hoạt động của DN càng cao.

Hình 9. Mô hình nghiên cứu đề xuất về tác động của CBTT PTBV đến hiệu quả hoạt động của các DN khai thác, chế biến thủy hải sản vùng duyên hải miền Trung – Việt Nam

Nguồn: Nguyễn Thị Thanh Trầm (2024)

Các nghiên cứu khác về CBTT PTBV

Nghiên cứu khác về CBTT PTBV thể hiện rất đa dạng trong chủ đề nghiên cứu, liên quan đến xu hướng PTBV của DN theo cách tiếp cận khác nhau, hoặc sử dụng phương pháp phân tích khác nhau hay chú trọng ở thông lệ thực hành kế toán.

Nghiên cứu liên quan đến CBTT PTBV theo khía cách trách nhiệm xã hội (TNXH) đã được nhiều tác giả thực hiện. Nhóm tác giả Dương Thị Thanh Hiền & cộng sự (2024) đã phân tích và làm rõ giữa kế toán PTBV và kế toán TNXH, tuy cách gọi khác nhau nhưng về bản chất là cơ bản giống nhau, đều đóng vai trò trong trách nhiệm giải trình và theo đuổi tính bền vững của DN. Ngoài ra, theo cách tiếp cận bằng phương pháp trắc lượng thư mục, một nghiên cứu định tính đã tiến hành đánh giá mối quan hệ giữa CBTT về trách nhiệm xã hội với mục tiêu PTBV của các DN từ 146 quốc gia trong giai đoạn từ 2000-2024 (Nguyễn Thị Lương, 2024). Với phạm vi về công ty niêm yết tại Việt Nam, nghiên cứu của Nguyễn Hữu Cường & Trương Nhật Uyên (2024) đã nêu ra thực trạng CBTT về TNXH vẫn còn thấp và kết quả nghiên cứu chưa ghi nhận tác động của CBTT TNXH đến chi phí sử dụng vốn trong giai đoạn suy thoái kinh tế sau Covid-19.

Nghiên cứu khác về CBTT PTBV theo cách tiếp cận bằng nhiều phương pháp khác nhau. Bằng cách sử dụng phương pháp Meta-Analysis, các tác giả đã tìm thấy mối quan hệ tích cực giữa báo cáo PTBV với hiệu quả tài chính DN (Nguyễn Văn Linh & cộng sự, 2021). Đặc biệt, mối liên hệ này có tương tác hai chiều và chỉ ra rằng DN quan tâm đến CBTT PTBV sẽ gặt hái hiệu quả tài chính trong dài hạn.

Ngoài ra, nghiên cứu của Hoàng Đình Hương & Nguyễn Hoản (2023) và Phùng Thị Thu Hương (2024) về thực hành kế toán bền vững sẽ đóng góp vào mục tiêu PTBV của DN, hỗ trợ cung cấp một khuôn khổ báo cáo PTBV. Trong xu hướng mới, một số khuyến nghị cho các DN tăng cường thực hành kế toán xanh, là một phần tích hợp trong chiến lược theo đuổi PTBV (Nguyen Huu Anh & Doan Thuy Duong, 2024). Cũng với cách tiếp cận theo hướng thực hành, nghiên cứu xem xét tác động của kỹ thuật kế toán bền vững đối với tính bền vững của DN (Nguyen Phu Giang, 2024). Tác giả nhấn mạnh vai trò của các bên liên quan, sự tham gia có ưu tiên của các bên liên quan sẽ khẳng định tính phát triển toàn diện và bền vững không chỉ đối với DN, mà còn mở rộng đến cả chuỗi cung ứng. Nghiên cứu khác đã xem xét việc thực hành kế toán TNXH tại các DN xây lắp trong thành phố Đà Nẵng. Trong phạm vi nghiên cứu, các tác giả xem xét các nhân tố có ảnh hưởng tích cực đến việc thực hành kế toán để đạt mục tiêu bền vững, bao gồm nhận thức của nhà quản trị, đặc điểm của DN xây dựng, áp lực của các bên liên quan, văn hóa DN và chiến lược phát triển của DN (Dương Thị Thanh Hiền & cộng sự, 2024).

3. Thảo luận

Các nghiên cứu liên quan về CBTT PTBV của các tác giả tại Việt Nam cho thấy, theo xu hướng PTBV của thế giới. Từ lúc ban đầu, trong bối cảnh Việt Nam việc CBTT PTBV chưa thật sự phổ biến, được quan tâm, các tác giả đã tập trung làm rõ, giải thích và nâng cao phổ biến các khái niệm về PTBV trong môi trường kinh doanh, đến việc thực hiện CBTT PTBV theo các khuôn mẫu báo cáo PTBV. Trong bối cảnh hiện nay, các nghiên cứu gần nhất đã chỉ ra sự nâng cao nhận thức về các vấn đề về PTBV như môi trường, xã hội và quản trị của các tổ chức, việc CBTT PTBV càng trở nên quan trọng. Từ đó việc CBTT dạng phi tài chính này được xem là yêu cầu thiết yếu trong chiến lược phát triển của DN (PwC & VIOD, 2022).

Nghiên cứu về CBTT PTBV của các tác giả tại Việt Nam phần lớn tập trung trong phạm vi các công ty niêm yết trên TTCK. Điển hình là các nghiên cứu của Đặng Ngọc Hùng & cộng sự (2018), Trịnh Hữu Lực & Tăng Thành Phước (2019), Nguyen & cộng sự (2021), và Nguyễn Thị Thu Nguyệt & Trần Thị Thanh Hải (2023). Điều này hoàn toàn phù hợp với thực tế về yêu cầu về mặt phát lý kể từ Thông tư số 155/2015/TT-BTC ngày 06/10/2015 đến Nghị định 06/2022/NĐ-CP ngày 07/01/2022 và Quyết định số 13/2024/QĐ-TTg ngày 13/08/2024. Về sau, sự đa dạng phạm vi nghiên cứu tại DN thuộc lĩnh vực ngành nghề khác nhau được thể hiện trong các nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Thị Thu Nguyệt (2021), Nguyễn Văn Linh (2022), Lê Anh Tuấn (2022), Nguyễn Thị Thanh Trầm (2024). Các luận án tiến sỹ nghiên cứu về CBTT PTBV không phải trong một DN cụ thể mà phạm vi nghiên cứu rộng hơn trong một ngành hoặc một tổng công ty. Trong vài nghiên cứu này, các tác giả lập phiếu khảo sát các đơn vị để đánh giá thực trạng CBTT PTBV hoặc mức độ CBTT PTBV cũng như đề xuất các nhóm nhân tố tác động đến CBTT PTBV.

Thêm nữa, các nghiên cứu cũng cho thấy, Việt Nam đã bắt đầu chú ý đến việc thực hành kế toán theo hướng bền vững so với trước đây thiên về thực hành kế toán môi trường. Sự thay đổi nhận thức và phần lớn chính sách chú trọng vào các DN niêm yết, sự hỗ trợ để thực hiện CBTT PTBV dần dần được đề cập đến nhu cầu áp dụng kế toán bền vững. Vì thực tế, DN gặp khó khăn trong việc thực hiện CBTT PTBV, đặc biệt, thiếu kiến thức, thiếu vị trí lãnh đạo chuyên điều hành về PTBV hay cần có một lộ trình hướng dẫn cho DN trong thực hiện báo cáo PTBV theo thứ bậc từ lúc mới bắt đầu, sang áp dụng và đến mức chiến lược (PwC & VIOD, 2022).

4. Kết luận

Bài viết đã tiến hành phân tích tổng quan các nghiên cứu có liên quan về CBTT PTBV của các tác giả ở Việt Nam. Chủ đề CBTT PTBV tại Việt Nam đã trải qua một thập niên kể từ Thông tư số 155/2015/TT-BTC ngày 06/10/2015 nhưng tỷ lệ các DN Việt Nam thực hiện CBTT PTBV vẫn còn chiếm tỷ lệ thấp. Đại đa số các công ty có CBTT dạng phi tài chính này là công ty đã niêm yết trên TTCK Việt Nam. Một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến tỷ lệ DN Việt Nam CBTT PTBV còn thấp, là do trước nhất là xu thế phát triển kinh tế theo hướng PTBV chưa tác động mạnh đến DN, đặc biệt có tác động thấp nhất của các DN siêu nhỏ và nhỏ tại Việt Nam (N. D. Nguyen & cộng sự, 2024). Kế tiếp, các DN nhận thức và hiểu biết về PTBV còn hạn chế, đặc biệt ở các DN nhỏ và vừa (PwC & VIOD, 2022; N. D. Nguyen & cộng sự, 2024). Nhiều DN chưa thấy rõ lợi ích lâu dài của việc minh bạch thông tin liên quan đến các yếu tố môi trường, xã hội và quản trị (ESG), mà chỉ xem đây là một gánh nặng chi phí hoặc hoạt động mang tính hình thức (N. D. Nguyen & cộng sự, 2024). Bên cạnh đó, khuôn khổ pháp lý hiện hành mặc dù đã có một số quy định khuyến khích CBTT PTBV, song vẫn chưa đủ mạnh để bắt buộc thực hiện hoặc còn thiếu các hướng dẫn cụ thể, dẫn đến tình trạng DN không mặn mà tham gia (PwC & VIOD, 2022). Xét theo quan điểm của các bên có liên quan, nhất là nhà đầu tư, thì tại Việt Nam, các DN chưa bị áp lực từ nhà đầu tư, thị trường hay cổ đông về minh bạch thông tin PTBV. Do vẫn chưa đủ mạnh, nên động lực để thúc đẩy thay đổi hành vi chưa cao. Mặc dù báo cáo bền vững đã và đang trở thành yếu tố hết sức quan trọng đối với tính minh bạch của tổ chức và lựa chọn đầu tư trên toàn cầu, nhưng các thị trường tài chính mới nổi trong đó có Việt Nam thường bị cho là coi trọng lợi ích trước mắt hơn tính bền vững lâu dài (KPMG, 2020).

Việc CBTT PTBV bị tác động bởi nhân tố chủ yếu gồm quy mô DN, cam kết của lãnh đạo, sự tham gia của các bên có liên quan như kiểm toán độc lập. Trong hầu hết các nghiên cứu, khuyến nghị đều đề xuất cần có cơ sở pháp lý cũng như sự quan tâm nhiều hơn của chính phủ về chính sách bắt buộc đối với DN trong từng lĩnh vực kinh doanh nhằm thúc đẩy hoạt động CBTT PTBV tại Việt Nam. Thêm nữa, các công bố nhấn mạnh nhu cầu cả DN và các cơ quan chính phủ phải công nhận và ưu tiên các nguyên tắc ví dụ như ESG để thúc đẩy một tương lai kinh tế bền vững và toàn diện hơn (N. D. Nguyen & cộng sự, 2024).

Kết quả nghiên cứu này cũng giúp tác giả bài viết khám phá ra các khoảng trống trong nghiên cứu về CBTT PTBV tại Việt Nam, thúc đẩy nghiên cứu theo nhiều định hướng mới trong tương lai. Xét theo quy mô, một hướng nghiên cứu tiềm năng là tìm hiểu thực hiện CBTT PTBV trong nhóm DN vừa và nhỏ. Ngoài ra, trong một số lĩnh vực có tính đặc thù về môi trường và chuỗi cung ứng có yếu tố liên quan nhiều đến PTBV nên vai trò quan trọng cần khám phá sâu các yếu tố thúc đẩy hoặc cản trở quá trình này, đặc biệt trong ngành chế biến nông sản và thủy sản. Nếu chú trọng đến tính thực hành, nghiên cứu tiềm năng sẽ là khám phá nhận thức và hành vi của nhà quản lý về vai trò của chuyển đổi số hoặc tìm hiểu mức độ hiểu biết và mức độ sẵn sàng của bộ phận kế toán – tài chính trong việc áp dụng kế toán xanh trong việc cải thiện minh bạch thông tin PTBV. Thông qua phỏng vấn sâu với lãnh đạo DN, nhà nghiên cứu có thể tìm hiểu những khó khăn, rào cản, cũng như kỳ vọng trong việc tích hợp các công cụ số như hệ thống ERP, phần mềm kế toán xanh hoặc blockchain vào công tác báo cáo (KPMG, 2020; PwC & VIOD, 2022). Hơn nữa, một hướng khác là có thể hướng tới là CBTT PTBV theo hướng các mục tiêu PTBV (SDGs).

Nghiên cứu của KPMG (2020) nhấn mạnh các SDGs có vị thế ngày càng quan trọng trong báo cáo PTBV. CBTT PTBV theo khung SDGs giúp DN đạt được một tương lai tốt đẹp hơn khi theo đuổi chiến lược TNXH và PTBV bằng cách giải quyết các thách thức toàn cầu như đói nghèo, bất bình đẳng, biến đổi khí hậu, và suy thoái môi trường. Những định hướng nghiên cứu này không chỉ cung cấp bức tranh toàn diện hơn về thực trạng hiện nay mà còn giúp định hình các chính sách hỗ trợ phù hợp cho DN trong giai đoạn chuyển đổi hướng đến PTBV.