Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua cơ quan dân cử, cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân. Đổi mới hoạt động giám sát của cơ quan dân cử, xuất phát từ chính những yêu cầu và đòi hỏi mang tính thực tiễn khách quan trong hoạt động của Quốc hội. Đổi mới và nâng cao hiệu quả giám sát của cơ quan dân cử, trong đó có hoạt động giám sát về quản lý, sử dụng ngân sách Nhà nước (NSNN) là cần thiết, xuất phát từ những yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, từ yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật trong kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đồng thời cũng do yêu cầu hội nhập quốc tế kinh tế quốc tế.
Quản
lý và sử dụng NSNN là nghĩa vụ thiêng liêng của mọi mọi công dân và mọi tổ chức.
Để đưa vào khuôn khổ pháp lý và quản lý thống nhất, đã có Luật về NSNN, có cơ
quan công quyền đủ mạnh, có chế tài và cơ chế thẩm định, kiểm tra và kiểm soát
mang về lợi ích cho đất nước, cho nhân dân. Trong hệ thống các công cụ kiểm
tra, kiểm soát tài chính nhà nước, NSNN có kiểm toán Nhà nước (KTNN) một định
chế được hiến định trong Hiến pháp. KTNN không chỉ thuần túy là kiểm tra, đánh
giá và xác nhận về mức độ tin cậy của thông tin tài chính Nhà nước và NSNN, mà
quan trong không kém là hỗ trợ các cơ quan nhà nước nâng cao năng lực quản lý.
Kết quả KTNN là căn cứ quan trọng, hỗ trợ và phục vụ cơ quan dân cử trong thực
hiện các chức năng của Quốc hội và của hội đồng nhân dân, trong đó có chức năng
giám sát về NSNN. Trên thực tế, KTNN đã cung cấp nhiều thông tin, tư liệu và ý
kiến mang tính tư vấn để các cơ quan dân cử sử dụng trong thảo luận và quyết định
những vấn đề quan trọng của đất nước. Trong hoạt động lập pháp và giám sát,
trong đó có quyết định, có giám sát về NSNN. Tuy nhiên, trên thực tế, việc sử
dung kết quả hoạt động KTNN còn hạn chế và chưa thật hiệu quả. Quốc hội, hội đồng
nhân dân khai thác, sử dụng kết quả KTNN trong quá trình thực hiện chức năng của
cơ quan dân cử là cần thiết, nhưng đến nay còn nhiều bất cập. Rất cần nâng cao chất lượng, nâng cao hiệu quả
sử dụng kết quả KTNN trong hoạt động giám sát của cơ quan dân cử để đảm bảo NSNN,
ngân quỹ nhà nước được quản lý chặt chẽ
và được sử dụng đúng mục đích và có có hiệu quả, việc phân bổ và quyết định
NSNN đúng thẩm quyền và đúng quy định của Luật pháp.
Quốc hội, hội đồng nhân dân có chức năng giám sát tình hình quản lý và sử dụng tài chính nhà nước, NSNN.
Mục tiêu cao nhất của việc giám sát thực thi pháp luật trong một xã hội dân chủ
- cho dù cơ quan nào tiến hành giám sát đi chăng nữa, cũng là để đảm bảo rằng
các cơ quan hành pháp và các cơ quan nhà nước khác nói chung hành động vì lợi
ích của người dân. Việc xác định các mục tiêu của hoạt động giám sát là rất
quan trọng. Bởi vì, mục tiêu nào thì cần phải có công cụ đó và phương thức phù
hợp với mục tiêu.
Kết quả KTNN không chỉ có giá trị pháp lý
và giá trị kinh tế, mà còn có giá trị về sự tin cậy và lòng tin, lòng tin của
người dân vào một nền tài chính quốc gia, tài chính nhà nước minh bạch và công
khai.
Trên cơ sở phân tích
phương hướng, yêu cầu và nguyên tắc, cần đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng,
hiệu quả sử dụng kết quả KTNN để hỗ trợ cơ quan dân cử trong hoạt động giám sát
về NSNN trong thời gian tới.
Trước hết, cần thống
nhất về nhận thức đối với hoạt động của KTNN
Về kết quả KTNN và về hoạt động giám sát của
cơ quan dân cử nói chung, hoạt động giám sát trong lĩnh vực quản lý và sử dụng NSNN
nói riêng. Nhận thức đúng và đầy đủ về giá trị của kết quả KTNN, về quyền năng
và về thẩm quyền của cơ quan dân cử trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
trung ương và ở địa phương. Đó là quyền đại diện cho cử tri và cho nhân dân, đảm
bảo quản lý và sử dụng NSNN an toàn, hiệu quả.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện các
quy định pháp lý về KTNN
Về giá trị kết quả KTNN, về hoạt động giám sát của cơ quan dân cử đối với việc
quản lý và sử dụng NSNN, trọng tâm là
các quy định mang tính pháp lý về trách nhiệm, quyền của KTNN, về giá trị của kết
quả KTNN và về trách nhiệm của các chủ thể giám sát và đối tượng được giám sát.
Trong đó, cần tiếp
tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về KTNN và giám sát, phù hợp với thực tiễn, có tính đến đặc thù của nhiệm kỳ cơ quan dân cử
trong bối cảnh mới và có những yêu cầu mới. Hoàn thiện các quy định pháp lý về
KTNN, về hoạt động giám sát của cơ quan dân cử trong quản lý và sử dụng NSNN, cần
quan tâm các chế tài để tăng cường tính đồng bộ, hiệu lực và hiệu quả của các hình thức giám sát.
Hoàn thiện các chế tài về giá trị pháp lý của kết quả KTNN, hậu quả pháp lý của
hoạt động giám sát cần được quy định rõ hơn nhằm ràng buộc đối tượng được giám
sát phải khắc phục sai sót, khuyết điểm và phải trả lời bằng văn bản những vấn
đề mà chủ thể giám sát yêu cầu, chỉ
đạo rà soát, đề xuất.
Ba là, cần đổi mới và nâng
cao chất lượng kết quả KTNN
Nâng cao tính hữu dụng của các báo cáo kiểm
toán và đổi mới phương thức báo cáo kiểm toán, đảm bảo cho các đối tượng đại biểu
dân cử có thể sử dụng kết quả KTNN một cách có ích và hữu dụng nhất có thể. Các
cơ quan dân cử cần có bộ phận chuyên trách, có hiểu biết sâu về tài chính kế
toán và kiểm toán, khai thác và chuyển tải kết quả kiểm toán cho các đối tượng
đại biểu dân cử.
Bốn là, đổi mới nội dung giám sát của cơ quan dân cử Quốc hội đối với việc
quản lý và sử dụng NSNN
Nội dung giám sát cần xuất phát từ mục đích
và yêu cầu của từng cuộc giám sát trong bối cảnh cụ thể ở từng thời kỳ phát triển
của đất nước, cần quan tâm cả nội dung mang tinh pháp lý, nội dung mang tính
kinh tế của hoạt động giám sát.
Nâng cao chất lượng, hiệu quả các hình thức
giám sát, tiếp tục đổi mới phương thức giám sát, sử dụng linh hoạt nhiều phương
thức giám sát phù hợp hoàn cảnh và yêu cầu. Cần có
biện pháp để đảm bảo sự cân đối giữa các lĩnh vực trong hoạt động giám sát về
quản lý và sử dụng NSNN. Chú
trọng hơn nữa sự gắn kết giữa hoạt động giám sát và hoạt động lập pháp, quyết định
các vấn đề quan trọng của đất nước.
Hoạt động giám sát cần
xác định là nhằm mục đích cung cấp thông tin từ thực tiễn để hoàn thiện hệ thống
chính sách, pháp luật, cũng như hoàn thiện cơ chế quản lý của nền kinh tế chuyển
đổi và kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập. Do đó, các kiến nghị và đề xuất
sau giám sát, cần được nghiên cứu nâng lên thành các chính sách Luật để trình
Quốc hội xem xét và có giải pháp cụ thể.
Năm là, hoàn thiện và đổi mới các phương thức, các
hình thức giám sát của Quốc hội đối với quản lý và sử dụng NSNN
Mỗi hình thức giám sát dựa trên một quy trình hợp lý, khoa học với những
phương thức giám sát phù hợp. Nâng
cao chất lượng và hiệu quả các hình thức giám sát, tiếp tục đổi mới phương thức
giám sát, sử dụng linh hoạt nhiều phương thức giám sát phù hợp hoàn cảnh và yêu
cầu. Cần có biện pháp để
đảm bảo sự cân đối giữa các lĩnh vực trong hoạt động giám sát về NSNN. Chú trọng hơn nữa sự gắn kết giữa hoạt động giám sát và hoạt động lập
pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Các kiến nghị và đề xuất sau
giám sát cần được nghiên cứu nâng lên thành các chính sách Luật trình cơ quan
dân cử, xem xét và có giải
pháp cụ thể.
Sáu là, phát huy các nhân
tố ảnh hưởng đến chất lượng giám sát của cơ quan dân cử đối với NSNN
Chất
lượng hoạt động giám sát của cơ quan dân cử về quản lý, sử dụng NSNN chịu ảnh
hưởng và tác động của rất nhiều nhân tố, trong đó có nhân tổ về tổ chức, về kỹ
năng, về nguồn lực và các điều kiện của hoạt động giám sát. Để đổi mới và nâng
cao chất lượng hoạt động giám sát của cơ quan dân cử đối với quản lý và sử dụng
NSNN, cần quan tâm sử dụng và phát huy cao nhất các nhân tố ảnh hưởng chất lượng
hoạt động giám sát, như:
- Tổ chức hệ thống thông tin và bảo đảm đầy đủ, kịp thời có tính hệ thống về
tình hình quản lý và sử dụng NSNN đảm bảo để các đại biểu dân cử khai thác và sử
dụng.
- Sử dụng tối đa và có hiệu quả kiến thức và
ý kiến tham vấn của các chuyên gia kinh
tế - tài chính, trong đó có các chuyên gia đầu ngành.
- Tận dụng mọi sự trợ giúp của các công cụ giám sát, trong đó có sự trợ
giúp của cơ quan chuyên môn, cơ quan thanh tra và cơ quan KTNN.
- Quốc hội, hội đồng nhân dân, các cơ quan của Quốc hội, hội đồng nhân dân,
đại biểu dân cử cần giành nhiều công sức, thời gian hơn nữa cho hoạt động giám
sát.
- Cần đổi mới cách thức làm báo cáo kết quả giám sát của cơ quan dân cử về
quản lý, sử dụng NSNN theo hướng lựa chọn tập trung vào những vấn đề tồn tại và
kiến nghị những vấn đề cấp bách và quan trọng, liên quan trực tiếp tới đối tượng
chịu sự giám sát, đến cơ chế quản lý, thẩm quyền và trách nhiệm người quan lý,
người quyết định sử dụng tài sản và sử dụng công quỹ.
- Cần nâng cao năng lực các chủ thể giám sát, cơ quan hỗ trợ chủ thể giám
sát, đặc biệt năng lực thu thập thông tin, xử lý thông tin, năng lực phân tích
kinh tế, tài chính.
- Các đại biểu dân cử cần được trang bị kỹ năng thu thập, kỹ năng phân loại
và đánh giá thông tin, đồng thời rất cần kỹ năng sử dụng các phương pháp tổng hợp,
phương pháp phân tích so sánh, phân tích
xu hướng để đưa ra những kết luận và ý kiến phù hợp với thực tế quản lý và sử dụng
NSNN.
- Nâng cao chất lượng và sử dụng có hiệu quả đội ngũ phục vụ, giúp việc hỗ
trợ Quốc hội, hỗ trợ các Ủy ban và các đại biểu Quốc hội. Đồng thời, phải đảm bảo
những điều kiện vật chất tối thiểu, cơ chế cung cấp và khai thác thông tin, trực
tiếp là hoạt
động của Ủy ban Kinh tế, Ủy ban Tài chính - ngân sách. Đảm bảo phân công, phân nhiệm rõ ràng: cơ quan nhà nước ở
cấp nào, vị trí nào chỉ nên thực hiện những nhiệm vụ của cấp đó và vị trí đó.
Bảy là, nâng cao chất lượng các
báo cáo KTNN, các kiến nghị và bảo đảm các kiến nghị sau giám sát được thực hiện,
được giải trình
Trước hết là nhận thức
và quan điểm là hệ thống pháp luật về KTNN, về giám sát. Hậu quả pháp lý của hoạt
động KTNN và hoạt động giám sát cần được quy định rõ hơn, nhằm ràng buộc đối tượng
được giám sát phải khắc phục sai sót, khuyết điểm và phải trả lời bằng văn bản
những vấn đề mà chủ thể giám sát yêu cầu.
Tóm lại
Cơ
quan dân cử có chức năng giám sát hoạt
động Nhà nước, trong đó có tình
hình
quản lý và sử dụng NSNN.
Giám sát là một trong những chức năng của cơ quan dân cử, có mối quan hệ gắn bó
giữa lập pháp và giám sát. Mục tiêu cao nhất của việc giám sát thực thi pháp luật
trong một xã hội dân chủ, cho dù cơ quan nào tiến hành giám sát đi chăng nữa
thì cũng là để bảo đảm rằng, các cơ quan hành pháp và các cơ quan nhà nước khác
nói chung hành động vì lợi ích của người dân, trong đó có hành động quản lý và
sử dụng NSNN cho các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc
phòng.
Một trong những công cụ quan trọng hỗ trợ
hoạt động giám sát của cơ quan dân cử là kết quả hoạt động KTNN. Vấn đề đạt ra
là, cần sử dụng kết quả KTNN một cách thật hiệu quả cho hoạt động giám sát của
cơ quan dân cử.
Để nâng cao chất lượng hiệu quả và hiệu lực của
kết quả KTNN phục vụ, hỗ trợ hoạt động giám sát của cơ quan dân cử về NSNN, cần
rất nhiều giải pháp đồng bộ và những điều kiện kèm theo. Hy vọng, giải pháp và
kiến nghị có cơ sở căn cứ khoa học và mang tính thức tiễn sẽ góp phần nâng cao
chất lượng sử dụng kết quả KTNN, hỗ trợ hoạt động giám sát của Quốc hội về quản
lý và sử dụng NSNN.
Tài liệu tham khảo
Quốc hội, Hiến pháp Nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013.
Quốc hội, Luật số
87/2015/QH13.
Quốc hội, Luật NSNN 2015.
Quốc hội, Luật Hoạt động
giám sát của Quốc hội và hội đồng nhân dân.
Quốc hội, Luật KTNN 2015
(sửa đổi 2019).
UBTV Quốc hội, (2020),
Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2030, tầm nhìn 2035.