Nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng tài sản công tại các đơn vị sự nghiệp công lập -
nhìn từ góc độ kế toán
TS. Châu Hồng Phương ThảoThứ hai, 28/04/2025 09:54 (GMT+7)
Hiện nay, công tác quản lý và sử dụng tài sản công luôn là vấn đề nhận được nhiều sự quan tâm của các cấp quản lý cũng như các đơn vị thực thi quan tâm. Căn cứ pháp lý về tài sản công đang dần được hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị trong quá trình triển khai thực hiện.
Ảnh minh họa
Các đơn vị sự nghiệp công lập (ĐVSNCL), việc quản lý và sử dụng tài sản công, đặc biệt là tài sản cố định (TSCĐ) giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong tiến trình nâng cao mức độ tự chủ tài chính theo chủ trương của Chính phủ. Để TSCĐ phát huy hiệu quả khi sử dụng, các đơn vị cần thiết kế quy trình quản lý theo đúng quy định pháp luật và tổ chức công tác kế toán chặt chẽ, tuân thủ chế độ kế toán hiện hành. Bài viết trình bày những tồn tại trong công tác kế toán TSCĐ ở các ĐVSNCL và đề xuất giải pháp khắc phục nhằm góp phần nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng TSCĐ của các đơn vị này.
1. Giới thiệu
Theo Luật Quản lý, sử dụng tài sản
công số 15/2017/QH14: “Tài sản công là tài sản thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước
đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, bao gồm: tài sản công phục vụ hoạt
động quản lý, cung cấp dịch vụ công, bảo đảm quốc phòng, an ninh tại cơ quan,
tổ chức, đơn vị; tài sản kết cấu hạ tầng phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công
cộng; tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân; tài sản công tại doanh
nghiệp; tiền thuộc ngân sách nhà nước, các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân
sách, dự trữ ngoại hối nhà nước; đất đai và các loại tài nguyên khác”. Từ khái
niệm này có thể thấy tài sản công là một bộ phận đáng kể trong nguồn lực hoạt
động của các tổ chức thuộc khu vực công nói chung. Hiện nay, việc quản lý và sử
dụng tài sản công được thực hiện thống nhất thông qua các văn bản quy phạm pháp
luật quy định cụ thể về nguồn hình thành tài sản, quản lý và sử dụng tài sản,
kế toán và báo cáo. Công tác thanh tra, kiểm tra về việc quản lý, sử dụng tài
sản công của các tổ chức, cơ quan, đơn vị cũng được thực hiện sát sao nhằm đảm
bảo tài sản này được khai thác hết tiềm năng và sử dụng có hiệu quả. Tuy nhiên,
việc quản lý và sử dụng tài sản công còn phát sinh nhiều vấn đề cần xem xét,
đặc biệt đối với TSCĐ như: Tài sản không được sử dụng đúng mục đích hoặc sử
dụng nhưng kém hiệu quả; thiếu sự minh bạch, công khai trong quản lý tài sản;
sai phạm về kế toán, thiếu cơ chế xử lý hiệu quả,…
Xét riêng trường hợp các ĐVSNCL,
trước xu thế tăng cường cơ chế tự chủ tài chính, áp lực tìm kiếm nguồn thu của
các đơn vị này càng gia tăng, khi đó việc sử dụng TSCĐ cho mục
đích kinh doanh,
liên doanh, liên kết là tất yếu. Để việc sử dụng tài sản công nói chung của các
ĐVSNCL đúng quy định và hiệu quả, cần phải có sự thống nhất giữa việc
tuân thủ cơ chế tài chính và chế độ kế toán. Hiện nay, hệ thống pháp lý về quản
lý, sử dụng tài sản công đã được quy định khá chi tiết và toàn diện, tuy
nhiên trong quá trình thực thi các đơn vị còn gặp vướng mắc. Điều này dẫn đến
tài sản công chưa được khai thác tối ưu, gây lãng phí, thất thoát cho ngân
sách Nhà nước.
2. Cơ sở pháp lý
Tài sản công ở ĐVSNCL chịu điều
chỉnh bởi Luật Quản lý, sử dụng tài sản công số 15/2017/QH14. Luật quy định
nguyên tắc, phương thức, cơ chế quản lý tài sản công, bao gồm các loại tài sản
công, quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong việc quản lý và sử dụng
tài sản công. Sau luật là Nghị định 151/2017/NĐ-CP quy định chi tiết về
phân loại tài sản công, quản lý tài sản công, quy trình mua sắm tài sản công,
cho thuê và các quy định về xử lý tài sản công. Sau đó, Chính phủ ban hành Nghị
định 114/2024/NĐ-CP ngày 19/05/2024 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định
151/2017/NĐ-CP. Liên quan đến nguồn hình thành tài sản, một trong
những
nội dung được quan tâm nhiều đó là
việc tuân thủ các quy định về đấu thầu trong mua sắm TSCĐ. Nội dung này được
quy định cụ thể trong Luật Đấu thầu 22/2023/QH15 hướng dẫn thực hiện chi tiết
tại Nghị định 24/2024/NĐ- CP. Ngày
29/11/2024, Quốc hội tiếp tục ban hành Luật số 57 sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Quy hoạch, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật
Đấu thầu. Trong
đó,
các nội dung sửa đổi, bổ sung
trong Luật Đấu thầu cần lưu ý gồm: Hạn mức chỉ định thầu,
lựa chọn nhà thầu trong trường hợp đặc biệt, quy định về việc thành lập tổ
chuyên gia trong hoạt động đấu thầu. Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật
được ban hành ở cấp Trung ương, các địa phương tiếp tục ban hành các Nghị quyết
về phân cấp quản lý và sử dụng tài sản công áp dụng phù hợp với đặc trưng của
từng địa phương.
Tiêu
chuẩn ghi nhận TSCĐ khi thỏa mãn đồng thời 2 điều kiện: (1) Có thời gian sử
dụng từ 01 năm trở lên, (2) có nguyên giá từ 10.000.000 đồng trở lên.
Riêng
TSCĐ tại ĐVSNCL tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư, tài sản tại ĐVSNCL
thuộc đối tượng phải tính đủ khấu hao TSCĐ vào giá dịch vụ theo quy định của
pháp luật và tài sản tại ĐVSNCL được sử dụng toàn bộ thời gian vào hoạt động
kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết mà không hình thành pháp nhân mới
theo quy định của pháp luật được xác định là TSCĐ khi thỏa mãn đồng thời 02
điều kiện sau đây: (1) Có thời gian sử dụng từ 01 năm trở lên, đáp ứng tiêu
chuẩn về nguyên giá TSCĐ theo quy định áp dụng cho doanh nghiệp (khoản 2, khoản
3, Điều 3 Thông tư 23/2023/TT-BTC).
Đối
với công tác kế toán TSCĐ tại đơn vị, Thông tư 24/2024/TT-BTC hướng dẫn chi
tiết kế toán gồm chứng từ, tài khoản, sổ sách và báo cáo liên quan đến TSCĐ.
Bên cạnh đó, chế độ quản lý, tính hao mòn, khấu hao TSCĐ được quy định tại
Thông tư 23/2023/TT-BTC. Mọi TSCĐ hiện có tại đơn vị phải được quản lý chặt chẽ
về hiện vật và giá trị theo đúng quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài
sản công và pháp luật có liên quan.
Yêu cầu đặt ra, là các
đơn vị phải hạch toán đúng, đủ giá trị của tài sản, đảm bảo sự trùng khớp giữa
giá trị và hiện vật, có hệ thống sổ sách và báo cáo theo đúng chế độ kế toán
hiện hành, công khai và minh bạch. Nội dung nổi bật cần lưu ý trong quản lý
TSCĐ tại ĐVSNCL là quy định đối với tài sản có giá trị thương hiệu của đơn vị. Mặc dù, Thông tư
23/2023/TT-BTC có quy định khá chi tiết về giá trị thương hiệu ĐVSNCL, tuy
nhiên định nghĩa về giá trị thương hiệu ĐVSNCL chưa rõ ràng, dẫn đến sự không đồng
nhất khi áp dụng trong thực tế kế toán.
Theo
nguyên tắc quản lý TSCĐ được quy định tại Điều 5 Thông tư 23/2023/TT-BTC thì
đơn vị có trách nhiệm:
(1)
Lập thẻ TSCĐ, kế toán đối với toàn bộ TSCĐ hiện có;
(2)
Kiểm kê tài sản định
kỳ hàng năm; thực hiện điều chỉnh số liệu kế toán nếu có chênh lệch phát sinh
khi thực hiện kiểm kê;
(3)
Thực hiện báo cáo kê
khai, báo cáo tình hình quản lý, sử dụng tài sản theo quy định của pháp luật về
quản lý, sử dụng tài sản công;
(4)
TSCĐ đã tính đủ hao
mòn hoặc đã khấu hao hết giá trị nhưng vẫn còn sử dụng được thì cơ quan, tổ
chức, đơn vị, doanh nghiệp vẫn phải tiếp tục quản lý, theo dõi, bảo quản theo
quy định của pháp luật.
Theo Điều 38 Nghị định 60/2021/NĐ-CP
Quy định cơ chế tự chủ của ĐVSNCL thì các đơn vị phải lập Quy chế quản lý, sử
dụng tài sản công để quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của từng bộ phận, cá nhân có liên quan đến đầu tư xây
dựng, mua sắm, tiếp nhận, thuê, khoán kinh phí, sử dụng, khai thác, kiểm kê,
đánh giá lại, chuyển đổi công năng sử dụng, thu hồi, điều chuyển, bán, thanh
lý, tiêu hủy và các hình thức xử lý tài sản khác; lập, quản lý, lưu trữ hồ sơ
tài sản; bảo vệ tài sản; bảo dưỡng, sửa chữa tài sản; kiểm kê, kiểm tra tài
sản; báo cáo tài sản công. Quy định này ảnh hưởng trực tiếp đến công tác kế
toán tài sản công tại đơn vị nói chung và TSCĐ nói riêng tại các đơn vị.
3. Tồn tại trong kế toán TSCĐ tại ĐVSNCL
Mặc dù hệ
thống quy định pháp luật về kế toán TSCĐ tại các ĐVSNCL khá đầy đủ, nhưng thực
tế vẫn còn tồn tại nhiều vướng mắc. Các vấn đề phổ biến bao gồm:
Kế toán tăng
TSCĐ
Khi hạch toán tăng TSCĐ, các đơn vị
cần lưu ý đến nguồn hình thành để hạch toán theo đúng hướng dẫn của chế độ kế
toán (trước khi Thông tư 24/2024/TT-BTC có hiệu lực vào ngày 01/01/2025 thì các
đơn vị thực hiện theo Thông tư 107/2017/TT-BTC). Trong đó, nguồn hình thành bao
gồm: Mua sắm, đầu tư xây dựng từ ngân sách Nhà nước; được tài trợ, biếu tặng;
nhận điều chuyển từ đơn vị khác. Đối với mỗi nguồn hình thành, nguyên giá và
giá trị còn lại của TSCĐ được ghi nhận phù hợp với bản chất nghiệp vụ phát
sinh. Hạn chế thường gặp ở đơn vị là việc ghi tăng nguyên giá TSCĐ nhưng không
đầy đủ, không tính các khoản chi phí có liên quan phát sinh trước khi đưa vào
sử dụng. Ngoài ra, các đơn vị còn gặp khó ở bước ghi nhận nguyên giá đối với
TSCĐ nhận từ nguồn tài trợ, biếu tặng khi bên tài trợ không có đủ minh chứng
theo đúng quy định. Mặc dù có quy định về việc thành lập hội đồng thẩm định giá
để có căn cứ ghi sổ nhưng các đơn vị vẫn còn e ngại khi thực hiện các thủ tục
có liên quan. Bên cạnh đó, một trong những lỗi cơ bản về kế toán TSCĐ mà các
đơn vị mắc phải là không cập nhật nguyên giá TSCĐ khi tăng, không lập đầy đủ
các thẻ TSCĐ đang quản lý và sử dụng. Đặc biệt là trong những trường hợp thay
đổi người làm kế toán mà công tác bàn giao chưa đảm bảo quy định, điều này dẫn
đến sự không phù hợp giữa giá trị và hiện vật TSCĐ.
Kế toán giảm
TSCĐ
TSCĐ giảm do bán, thanh lý là trường
hợp phổ biến. Các đơn vị thường không thực hiện đầy đủ thủ tục pháp lý khi bán
hoặc thanh lý TSCĐ theo quy định, không tiến hành hạch toán giảm TSCĐ sau khi
thanh lý. Một số TSCĐ không còn đủ tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ cần chuyển qua theo
dõi như công cụ, dụng cụ nhưng đơn vị không thực hiện đúng như quy định chế độ
kế toán. Trước đây, khi áp dụng tiêu chuẩn xác định TSCĐ theo Thông tư
45/2018/TT-BTC, căn cứ đặc
điểm tài sản sử dụng thực tế của ngành, lĩnh vực, địa phương và yêu cầu quản lý
có những tài sản có nguyên giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 10.000.000 đồng vẫn
có thể được xem xét ghi nhận là TSCĐ. Nhưng đến ngày 10 tháng 6 năm 2023 khi
Thông tư 23/2023/TT-BTC có hiệu lực thi hành thì tài sản được ghi nhận là TSCĐ
khi có nguyên giá từ 10.000.000 đồng trở lên. Do đó, các đơn vị cần rà soát lại
những TSCĐ nào có nguyên giá dưới 10.000.000 đồng thì phải chuyển sang theo
dõi như công cụ, dụng cụ.
Tính hao mòn, khấu hao TSCĐ
Theo khoản 1 và khoản 2 Điều 15
Thông tư 23/2023/TT-BTC, TSCĐ tại ĐVSNCL đảm bảo chi thường xuyên và chi đầu tư
(nhóm 1), TSCĐ thuộc đối tượng phải tính đủ khấu hao vào giá dịch vụ theo quy
định của pháp luật. Khi TSCĐ được sử dụng vào hoạt động kinh doanh, cho thuê,
liên doanh, liên kết mà không hình thành pháp nhân mới theo quy định của pháp
luật, đơn vị thực hiện trích khấu hao theo quy định áp dụng cho doanh nghiệp.
Nếu TSCĐ vừa sử dụng cho hoạt động kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết,
vừa sử dụng vào hoạt động theo chức năng và nhiệm vụ, đơn vị phải thực hiện
tính toán, xác định tổng giá trị hao mòn và khấu hao trong năm của TSCĐ theo
mức hao mòn hàng năm quy định chi tiết tại Điều 14 Thông tư 23/2023/TT-BTC. Tồn
tại phổ biến ở các đơn vị là không trích khấu hao TSCĐ hoặc trích khấu hao quá
thấp, không phù hợp với khoản thu được từ hoạt động kinh doanh, cho thuê, liên
doanh, liên kết.
Xem lại quy định tại điểm b, khoản 2
điều 15 Thông tư 23/2023/TT-BTC “Căn cứ thời gian sử dụng, tần suất
sử dụng hoặc khối lượng công việc hoàn thành, đơn vị tính toán phân bổ số khấu
hao và số hao mòn trong tổng giá trị hao mòn và khấu hao trong năm đã xác định
tại điểm a khoản này để hạch toán vào chi phí cung ứng dịch vụ sự nghiệp công,
chi phí kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết đối với số khấu hao; thực
hiện hạch toán kế toán hao mòn tài sản cố định đối với số hao mòn”, nhận thấy quy định tạo sự linh
hoạt cho đơn vị khi xác định số trích khấu hao TSCĐ, mặt khác cũng là nguyên
nhân dẫn đến những hạn chế trong việc ghi nhận và hạch toán khoản khấu hao.
Trước tiên, khi sử dụng TSCĐ để thực
hiện các hoạt động kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết, các đơn vị phải
xác định khoản trích khấu hao TSCĐ và quy định cụ thể trong quy chế chi tiêu
nội bộ được lập theo hướng dẫn của Thông tư 56/2022/TT-BTC. Việc trích khấu hao
TSCĐ được thực hiện từ ngày TSCĐ được dựa vào sử dụng vào mục đích kinh doanh, cho
thuê, liên doanh, liên kết và dừng trích khấu hao TSCĐ từ sau ngày kết thúc
việc sử dụng TSCĐ vào các mục đích trên. Chi phí khấu hao TSCĐ phải được phân
bổ cho từng hoạt động sự nghiệp, từng hoạt động kinh doanh, cho thuê, liên
doanh, liên kết để hạch toán chi phí của từng hoạt động tương ứng. Với quy định
này, kế toán ở đơn vị phải mở sổ đăng ký phần khấu hao TSCĐ, trong đó tách
riêng số hao mòn và khấu hao phụ thuộc vào mức độ sử dụng TSCĐ trong hoạt động
kinh doanh, cho thuê, liên doanh, liên kết. Tuy nhiên, một số các đơn vị thực hiện trích khấu hao
chưa đủ theo mức độ sử dụng TSCĐ. Điều này gây áp lực đến ngân sách nhà nước
khi phải bù đắp chi phí hao mòn TSCĐ.
4.Kiến
nghị
TSCĐ
giữ vai trò quan trọng trong hoạt động của ĐVSNCL. Do đó, để đảm bảo hiệu quả
quản lý và sử dụng TSCĐ, cần nâng cao chất lượng công tác kế
toán. Theo cơ chế tài chính và chế độ kế toán như quy định hiện hành, đơn vị có
thể linh hoạt lựa chọn chính sách kế toán phù hợp với thực tiễn sử dụng TSCĐ.
Nhìn nhận một cách khách quan về những vấn đề còn tồn tại trong công tác kế
toán TSCĐ thông qua các kết luận thanh tra là cơ sở để đề xuất các kiến nghị
giúp cải thiện chất lượng công tác kế toán tại đơn vị. Hơn nữa, việc cải thiện chất lượng công tác kế
toán TSCĐ là nhiệm vụ cần thiết để tận dụng hiệu quả của TSCĐ trong ĐVSNCL. Một số kiến
nghị nhằm nâng cao hiệu
quả quản lý và sử dụng TSCĐ – nhìn từ góc độ kế toán được đề xuất như sau:
Thứ nhất, trong việc quản lý và khai thác
TSCĐ, trước tiên đơn vị cần nắm rõ các cơ sở pháp lý liên quan. Thực tế cho
thấy, thủ trưởng các ĐVSNCL thường tập trung nhiều đến hoạt động
chuyên môn của đơn vị, thiếu sự quan tâm đúng mức đến công tác quản lý tài
chính nói chung và khai thác TSCĐ nói riêng, do đó còn phụ thuộc vào sự tham
mưu của bộ phận kế toán. Hiện trạng này cho thấy, việc chuẩn hóa và nâng cao
trình độ của kế toán tại ĐVSNCL là điều rất cần thiết. Đảm bảo kế toán viên có
kiến thức vững về kế toán TSCĐ từ việc định giá, ghi nhận đến việc áp dụng các
phương pháp khấu hao, hao mòn TSCĐ. Việc kế toán nắm vững các quy định hiện
hành sẽ tổ chức thực hiện công tác kế toán tốt hơn, đồng thời kế toán sẽ đảm
nhiệm tốt vai trò tư vấn quản lý tài chính cho thủ trưởng, góp phần thực hiện
tốt vai trò phục vụ công của đơn vị.
Thứ hai, trong công tác kế toán TSCĐ, cần
thường xuyên cập nhật đầy đủ thông tin về TSCĐ như: nâng cấp làm thay đổi
nguyên giá, sửa chữa, bảo dưỡng, bán, thanh lý,... Ngoài ra, kế toán cần đảm bảo đầy đủ các
chứng từ liên quan đến việc thay đổi TSCĐ, mở đầy đủ các sổ, thẻ theo dõi TSCĐ
như quy định theo Thông tư 24/2024/TT-BTC. Sau khi hoàn tất các thủ tục bán
hoặc thanh lý TSCĐ, kế toán cần kịp thời hạch toán giảm TSCĐ theo quy định.
Thứ ba, kế toán theo dõi chặt chẽ nguồn
hình thành TSCĐ và mục đích sử dụng để hạch toán phù hợp các nội dung: Nguyên
giá TSCĐ, hao mòn, khấu hao, bán hoặc thanh lý. Bên cạnh đó, cần phân bổ khoản
khấu hao và hao mòn theo tỷ lệ hợp lý đối với những TSCĐ vừa sử dụng cho hoạt
động theo chức năng vừa cho thuê, kinh doanh, liên doanh, liên kết theo quy
định tại Thông tư 23/2023/TT-BTC.
Thứ tư, thủ trưởng ĐVSNCL cần nhận thức đầy đủ vai trò quản lý tài chính, đặc
biệt trong quá trình thực hiện cơ chế tự chủ tài chính, để có những chỉ đạo kịp thời cho bộ
phận kế toán. Ngoài ra, thủ trưởng đơn vị cần chủ động khai thác TSCĐ nhằm tăng
nguồn thu của đơn vị theo đúng quy định của pháp luật; thường xuyên giám sát,
kiểm tra tình hình sử dụng TSCĐ của các bộ phận trực thuộc để kịp thời chấn
chỉnh những hành vi sử dụng tài sản không đúng mục đích, gây lãng phí. Xây dựng
quy trình kiểm kê tài sản định kỳ cũng là phương pháp quản lý tài sản giúp đảm
bảo sự phù hợp giữa giá trị trên sổ sách và hiện vật.
Thứ năm, đơn vị cần sắp xếp và phân loại
TSCĐ theo đúng quy định, chuyển sang theo dõi như công cụ,
dụng cụ đối với những TSCĐ không đáp ứng đủ tiêu chuẩn; chủ động xây dựng hệ
thống đánh giá hiệu quả sử dụng TSCĐ bằng các tiêu chí như tỷ lệ sử dụng tài
sản trong công việc, chi phí bảo trì, sửa chữa, để có cái nhìn rõ ràng về hiệu
quả sử dụng tài sản và đưa ra biện pháp cải tiến phù hợp. Lưu ý rằng, hoạt động
này cần có sự kết hợp hài hòa, linh hoạt giữa cơ chế tài chính và hoạt động kế
toán.
5. Kết luận
TSCĐ là nguồn lực quan trọng trong
hoạt động của ĐVSNCL. Ngoại trừ, các đơn vị tự chủ hoàn toàn về
tài chính,
TSCĐ của các đơn vị khác chủ yếu được hình thành từ ngân sách nhà nước. Do đó,
việc khai thác, sử dụng và quản lý TSCĐ cần tuân thủ các quy định về quản lý
tài chính nhà, đồng thời phải hạch toán đầy đủ và hợp lý. Mặc dù cơ sở pháp lý về
kế toán TSCĐ khá hoàn thiện, tuy nhiên trong quá
trình triển khai
thực hiện ở các ĐVSNCL vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Dựa trên các quy định hiện hành và các kết
luận thanh tra tài chính, bài viết đã đề cập chi tiết những hạn chế ảnh hưởng
đến hiệu quả quản lý và sử dụng TSCĐ tại ĐVSNCL. Từ đó, đề xuất kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng công tác kế toán TSCĐ,
góp phần hiệu quả quản lý, sử dụng tài sản công tại các đơn vị.
Tài liệu tham khảo
Bộ Tài chính. (2022). Thông tư số 56/2022/TT-BTC. Hướng dẫn một số nội dung về cơ
chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập; xử lý tài sản, tài chính
khi tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập. Hà Nội.
Bộ Tài chính. (2024). Thông tư số 23/2023/TT-BTC. Hướng dẫn chế độ quản lý, tính hao
mòn, khấu hao tài sản cố định tại cơ quan, tổ chức, đơn vị và tài sản cố định
do nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý không tính thành phần vốn nhà nước
tại doanh nghiệp. Hà Nội.
Bộ Tài chính. (2024). Thông tư số 24/2024/TT-BTC. Hướng dẫn chế độ kế toán hành
chính, sự nghiệp. Hà Nội.
Chính Phủ. (2017). Nghị định số 151/2017/NĐ-CP. Quy định chi tiết một số điều của
luật quản lý, sử dụng tài sản công. Hà Nội.
Chính Phủ. (2021). Nghị định số 60/2021/NĐ-CP. Quy định cơ chế
tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập. Hà Nội.
Chính Phủ (2024). Nghị định số 114/2024/NĐ-CP. Sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 151/2017/NĐ-CP ngày 26 tháng 12 năm 2017 của chính phủ quy định
chi tiết một số điều của luật quản lý, sử dụng tài sản công. Hà Nội.
Quốc hội. (2021). Luật số 15/2017/QH14. Quản lý, sử dụng tài
sản công. Hà Nội.
Quốc hội. (2023). Luật số 22/2023/QH15. Luật đấu thầu. Hà Nội.
Quốc hội. (2024). Luật số 57/2024/QH15. Sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật quy hoạch, Luật đầu tư, Luật đầu tư theo phương thức đối tác công tư và
Luật đấu thầu. Hà Nội.
Thu nhập khác tăng đột biến do định giá lại tài sản góp vốn, lương của Chủ tịch HĐQT cùng các lãnh đạo tăng theo 30%, kê khai sai và sử dụng hoá đơn không hợp pháp, cổ phiếu tăng 3 lần... là những thông tin nổi bật nhất xoay quanh cổ phiếu MVN.