Hoàn thiện thể chế áp dụng IFRS tạo động lực mới cho tăng trưởng kinh tế

Phạm Nam Phong, ThS. Kế toán quốc tế Công ty TNHH Kiểm toán, Deloitte Việt Nam Thứ sáu, 12/09/2025 13:48 (GMT+7)

Việc hoàn thiện thể chế áp dụng IFRS được coi đây là bước đi bước “đi tắt, đón đầu” đưa Việt Nam hội nhập quốc tế sâu rộng, thu hút đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.

Trong năm 2025, cộng đồng doanh nghiệp chờ đợi việc ban hành quy định của thể thức cho phép áp dụng Chuẩn mực quốc tế về kế toán (IFRS) tại Việt Nam, bộ chuẩn mực được áp dụng phổ biến nhất trên thế giới, trong việc lập và trình bày báo cáo tài chính của doanh nghiệp.  Việc sớm ban hành quy định này sẽ là một đột phá thể chế cho phép hệ thống thông tin kế toán, tài chính doanh nghiệp Việt Nam vươn lên ngang tầm với thế giới khi cùng được xây dựng trên một “mặt bằng” là IFRS và về kỹ thuật, đó cũng được coi là sự chuyển đổi sang mô hình “kép” của kế toán Việt Nam. Doanh nghiệp khi đáp ứng tiêu chí nhất định của cơ quan quản lý, sẽ được phép tự quyết định lựa chọn áp dụng IFRS cho việc lập báo cáo tài chính cho mục tiêu luật định, dựa trên chính nhu cầu, nguồn lực của doanh nghiệp.

Theo thống kê đến tháng 5/2025, đã có 148 quốc gia, vùng lãnh thổ bắt buộc áp dụng với toàn bộ hoặc hầu hết các đơn vị có lợi ích công chúng trên thị trường vốn, chiếm 87% trong tổng số nước được khảo sát, bao gồm toàn bộ các nước G20 và luôn là “hình mẫu” để các nước học hỏi, sửa đổi cho hệ thống kế toán quốc gia của riêng mình.

Theo nhiều đánh giá và thực tế triển khai IFRS quốc tế, lợi ích tổng thể của việc áp dụng IFRS là vượt trội với chi phí triển khai, xét trên khía cạnh cả nền kinh tế và từng doanh nghiệp (“DN”), giúp tăng cường niềm tin của nhà đầu tư, nâng cao hình ảnh và vị thế của quốc gia và DN, mở rộng, thu hút vốn đầu tư quốc tế với chi phí rẻ hơn cũng như giúp nâng cao năng lực quản trị DN, tính minh bạch của thị trường dựa trên thông tin với chất lượng đạt chuẩn quốc tế.

Chiến lược Kế toán của Việt Nam đến năm 2030 được phê duyệt với Quyết định số 633/QĐ-TTg ngày 23/5/2022 của Thủ tướng Chính phủ đã có mục tiêu cụ thể là xây dựng khung pháp lý để áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) theo lộ trình phù hợp. Luật 56/2024/QH15 ngày 29/11/2024 có hiệu lực từ ngày 1/1/2025 của Quốc hội đã sửa đổi Luật kế toán số 88/2015/QH13 ngày 20/11/2015, theo đó Bộ Tài chính sẽ ban hành hướng dẫn đối tượng, phạm vi, thể thức, lộ trình và các nội dung khác liên quan đến việc áp dụng IFRS.

Xét đến tầm quan trọng và mức độ ảnh hưởng của việc áp dụng IFRS đến thị trường và nền kinh tế nói chung, việc xác định đối tượng, thể thức và lộ trình áp dụng IFRS sẽ là một bài toán lớn và rất cần sự đồng thuận rộng rãi, chung tay quyết tâm hành động của cơ quan quản lý, cộng đồng doanh nghiệp và chủ thể sử dụng BCTC để có thể triển khai thành công và sớm thu được lợi ích của việc áp dụng IFRS, tạo động lực mới cho tăng trưởng Việt Nam.

Xác định 2 nhóm đối tượng được phép áp dụng IFRS

Việc cho phép nhóm DN đáp ứng được tiêu chí nhất định được áp dụng IFRS song song với việc kiện toàn cơ chế quản lý để đảm bảo tính tuân thủ và giám sát hiệu quả, thay vì áp dụng tràn lan với số lượng quá lớn doanh nghiệp được đánh giá là hướng đi thích hợp. Sự định hướng chính sách có chủ đích này giúp bảo vệ tính toàn vẹn của thị trường, tạo ra “hình mẫu” có chất lượng báo cáo IFRS cao, dẫn dắt cộng đồng DN, hạn chế được rủi ro ro các BCTC, khi được lập bởi DN chưa đủ nguồn lực và kinh nghiệm, có thể chỉ mang danh nghĩa, định dạng theo IFRS nhưng không thực sự thay đổi bản chất ghi nhận và đo lường theo đúng chuẩn mực.   

Dựa trên kinh nghiệm quốc tế và thống kê của Hội đồng Chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB), nhóm đối tượng được phép áp dụng IFRS theo lộ trình tại Quyết định 345 ngày 16/3/2020 của Bộ Tài chính nên được tiếp tục cân nhắc và điều chỉnh phù hợp với bối cảnh của VN hiên nay. Các đối tượng này có thể là các nhóm sau đây và cần phải đáp ứng được tiêu chí quy mô ở mức cao nhất định (doanh thu, giá trị vốn hóa, vị trí dẫn dắt trong ngành v.v):

(i) Nhóm có yêu cầu cao về trách nhiệm giải trình minh bạch do bản chất có lợi ích công chúng (Public Interest Entity), cụ thể là: tổ chức niêm yết, công ty đại chúng quy mô lớn, tổ chức tín dụng (nhận tiền gửi từ công chúng), tổ chức bảo hiểm (cung cấp bảo hiểm cho công chúng). Nhóm này là phổ biến và được cho là thước đo quan trọng nhất của quốc tế khi đánh giá mức độ áp dụng triển khai IFRS ở một quốc gia nhất định.

(ii) Nhóm được cho là đã hoặc sẽ cần IFRS trong thực tế cho mục tiêu như huy động vốn với tổ chức quốc tế hoặc hoặc hay cung cấp thông tin tài chính cho công ty mẹ nước ngoài, bao gồmbao gồm: tổ chức là thành viên Trung tâm tài chính quốc tế tại VN, DN tiêu biểu dẫn dắt ngành kinh tế ở VN, DN có 100% vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, DN có vốn đầu tư nhà nước (sau đây gọi là DNNN) có các khoản vay quốc tế. Tại thời điểm bài viết này, thành viên Trung tâm tài chính quốc tế tại VN đã được cho phép áp dụng IFRS theo Nghị quyết 222 của Quốc hội có hiệu lực từ ngày 1/9/2025.

Mặc dù nhóm này được phát triển mở rộng hơn so với thông lệ quốc tế, nhưng đây cũng là cân nhắc để phù hợp với bối cảnh riêng của VN trong việc tạo thêm không gian cho doanh nghiệp được lựa chọn để tăng cường thu hút vốn đầu tư trong nước và quốc tế, đáp ứng mục tiêu tăng trưởng.

Xét riêng cho nhóm có lợi ích công chúng theo số liệu tính đến ngày 7/9/2025 từ Hệ thống công bố thông tin của Ủy ban chứng khoán Nhà nước, số lượng DN niêm yết (sàn HOSE, HNX) và DN đại chúng chưa niêm niết (UPCOM) lần lượt là 674 và 868 DN. Số lượng này được cho là quá lớn và theo đó, cần phải có tiêu chí định lượng để lựa chọn tối ưu, có thể dựa trên quy mô hoạt động, vị trí trong nhóm ngành kinh tế, doanh thu, giá trị vốn hóa.

Việc xác định cần đánh giá từ cơ quan chuyên môn về kế toán và cơ quan quản lý thị trường để đảm bảo năng lực triển khai song hành với cơ chế giám sát tuân thủ, tuy nhiên, người viết kỳ vọng kết quả đánh giá sẽ có khoảng 150-300 DN được cho phép áp dụng IFRS, trong đó khoảng 50-70% sẽ thực sự triển khai trong vòng 3 năm sau thời điểm cho phép áp dụng. Điều quan trọng không phải là số lượng, mà là chất lượng triển khai khi xét đến ảnh hưởng lan tỏa thể hiện ở giá trị vốn hóa và vị trí dẫn dắt ngành của DN áp dụng IFRS.

Ba thách thức khi triển khai IFRS

Ở Việt Nam, hệ thống thông tin kế toán, tài chính doanh nghiệp quốc gia được xây dựng trên nền tảng của thể chế kế toán được xây dựng theo các chuẩn mực kế toán được ban hành từ năm 2001 đến năm 2005 và tiếp đó là các văn bản pháp luật có liên quan đến kế toán cho DN (sau đây gọi chung là VAS). Hệ thống này đã “ăn sâu, bám rễ” và tích hợp mật thiết vào các chính sách, quy trình, cách thức quản trị của người quản lý, các chủ sở hữu, cách thức quản lý của cơ quan chuyên môn, cũng như cách đọc, hiểu và ra quyết định của chủ thể sử dụng thông tin BCTC trong hàng chục năm qua. Theo đó, việc chuyển đổi khi áp dụng chỉ một nguyên mẫu quốc tế IFRS khi tạo lập BCTC sẽ đặt ra nhiều thách thức lớn.

Các thách thức này được thể hiện ở Bảng 1 theo nhóm đối tượng và các quy định cần phải tuân thủ tương ứng liên quan đến thông tin kế toán, tài chính.

Bảng 1: Mức độ thách thức khi áp dụng IFRS theo nhóm doanh nghiệp

Thách thức đầu tiên và có thể lớn nhất là từ đặc thù mang tính kỹ thuật của lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, do khoảng cách lớn giữa IFRS và quy định kế toán Việt Nam cho nhóm đối tượng này. Các quy định kế toán IFRS, trong đó có IFRS 9 – Công cụ tài chính, IFRS 17 – Hợp đồng bảo hiểm áp dụng sâu rộng ở lĩnh vực này được đánh giá thuộc hàng phức tạp nhất trong các chuẩn mực của IFRS. Không chỉ khó về việc hiểu các quy định mà còn là yêu cầu cao về hệ thống công nghệ thông tin, dữ liệu, quản trị rủi ro, yêu cầu cao về xây dựng, vận hành và kiểm định những mô hình tính toán và mô hình dự báo phức tạp và tốn kém khi thực hành IFRS ở chất lượng cao.

Ngoài ra, việc chuyển đổi áp dụng IFRS có thể ảnh hưởng lớn đến thông tin phục vụ cho công tác điều hành chính sách tiền tệ, quản lý tăng trưởng tín dụng và an toàn hệ thống ngân hàng ở cả phạm vi DN và nền kinh tế, nhất là trong thời gian đầu chuyển đổi và trong giai đoạn đang có nhiều biến động phức tạp hiện nay.

Với bối cảnh này, cũng như kinh nghiệm giãn việc triển khai ở một số nước với nhóm ngành bảo hiểm, việc cần có lộ trình thận trọng hơn với Việt Nam cùng với sự chấp thuận của cơ quan quản lý về lĩnh vực được đánh giá là phù hợp, mặc dù, do yêu cầu quản trị cao của lĩnh vực này, một số DN tiên phong rất có thể đã triển khai IFRS trong thực tế cho mục tiêu quản lý của mình.

Thách thức thứ hai và là thách thức mặc định (đương nhiên tồn tại) của hầu hết các quốc gia là khoảng cách giữa IFRS và các quy định của cơ quan Thuế. Tại Việt Nam, các khác biệt vốn đã tồn tại khi DN áp dụng VAS cho mục tiêu kế toán và việc tính thuế theo quy định của cơ quan thuế. Việc áp dụng IFRS sẽ nới rộng hơn nữa những khác biệt trước đây và tạo ra những khoảng cách mới cần phải thuyết minh và giải trình nhiều hơn với cơ quan thuế sau này.

Về phía cơ quan thuế, với việc đã triển khai áp dụng thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung theo quy định chống xói mòn cơ sở thuế toàn cầu (Global Minimum Tax) ở Việt Nam khi mà các chỉ tiêu tính toán bắt nguồn từ BCTC hợp nhất được lập theo một chuẩn mực kế toán được chấp nhận, phổ biến nhất là IFRS thì việc tiếp cận, nâng cao năng lực và thực hành IFRS là đã nằm trong lộ trình chuyển đổi của cơ quan thuế rồi.  Ngoài ra, trong bối cảnh khi IFRS được cho phép áp dụng , cơ quan thuế có thể cân nhắc sửa đổi chính sách để giảm thiểu các khác biệt không cần thiết vì IFRS là quy định được ban hành bởi tổ chức quốc tế và Việt Nam ít có khả năng tác động thay đổi, trong khi vẫn đảm bảo mục tiêu quản lý thu thuế của mình.

Thách thức thứ ba và là thách thức chính yếu, cần sự quyết tâm xử lý nhiều nhất, do tác động ở hai khía cạnh.

- Thứ nhất là việc đảm bảo tính tuân thủ nghĩa vụ pháp lý và sự ổn định của hệ thống văn bản pháp luật về kế toán hiện hành, so với các nguyên tắc, quy định của chuẩn mực IFRS, theo đó tạo ra các xung đột khi áp dụng.

VAS và các văn bản quy định về kế toán ở VN được ban hành chủ yếu dưới hình thức các văn bản quy phạm pháp luật, bao gồm Luật, Nghị định và Thông tư (rule-base), theo đó yêu cầu tuân thủ (compliance) là cao và mang tính bắt buộc. Với DNNN, còn có thêm các quy định kế toán cho mục tiêu bảo toàn và phát triển vốn nhà nước, chủ yếu liên quan đến trích lập dự phòng và phân phối lợi nhuận.

Mô hình kế toán của VN được đánh giá là mô hình tĩnh, theo nguyên tắc giá gốc, thường giúp hạn chế việc “thổi phồng” tài sản, gia tăng lợi nhuận, phân chia lợi nhuận quá mức cho phần chưa “hiện thực hóa” (hay ngược lại, cũng không ghi nhận suy giảm giá trị tài sản) khi có sự thay đổi, biến động giá trị tài sản trên thị trường. Việc tính thuế để tuân thủ nghĩa vụ pháp lý được xuất phát và có cơ sở từ lợi nhuận kế toán được điều chỉnh cho các khác biệt về thuế và thông thường, hệ thống luật thuế quốc gia được xây dựng và phát triển song hành với VAS.

Trong khi, IFRS là một bộ chuẩn mực mang tính nguyên tắc (principle-base), mang tính xét đoán cao (judgements) của người quản lý với sự tham gia của chuyên gia khi cần thiết, theo mô hình động, gắn với yếu tố biến động thị trường, theo đó tạo ra khoảng cách lớn với chuẩn mực VN hiện tại, liên quan đến giá trị hợp lý của tài sản và nợ, suy giảm giá trị tài sản, tổn thất tín dụng dự kiến, công cụ tài chính v.v.

Chính khoảng cách xa hơn, “riêng có”, giữa IFRS và VAS tại thời điểm hiện tại (xem thêm minh họa ở Bảng 2) đã tạo ra những thách thức lớn hơn trong quá trình triển khai IFRS ở VN, so với các các quốc gia đã triển khai trước đây.

Bảng 2: Khoảng cách giữa IFRS và VAS

Thách thức này sẽ được giảm thiểu về mức không đáng kể hoặc thậm chí xóa bỏ khi hệ thống chuẩn mực kế toán quốc gia được xây dựng tiệm cận gần hoặc tương đương với IFRS, như các trường hợp của Singapore, Malaysia, Thailand, Indonesia, Trung Quốc, Hong Kong v.v. Ở VN, với lộ trình chuyển đổi căn bản và lâu dài của VAS sang một trạng thái “cao cấp” hơn – VFRS, tiệm cận tối đa với IFRS, theo Chiến lược Kế toán đến năm 2030 của Quyết định 633 của Thủ tướng chính phủ, các khác biệt khi đó sẽ được giảm thiểu dần và tạo điền kiện triển khai dễ dàng nguyên mẫu IFRS.

Ngoài ra, trong thực tế, một số DN lớn tại VN đã chủ động lập BCTC theo IFRS để phục vụ cho huy động vốn quốc tế hoặc mục tiêu quản trị do IFRS có thể giúp phản ánh tình hình tài chính của DN một cách rõ nét và bám sát thông tin thị trường hơn, tùy thuộc vào đặc điểm ngành nghề kinh doanh, ví dụ như ngân hàng, bất động sản, DN có liên quan nhiều đến công cụ nợ, công cụ vốn v.v. Tuy nhiên, BCTC này thường sử dụng cho mục tiêu riêng, không công bố rộng rãi, bởi cơ chế hiện hành vẫn yêu cầu báo cáo theo VAS cho mục đích luật định.

- Thách thức tiếp theo là có sự tồn tại hai loại BCTC có giá trị pháp lý, hoặc theo tiêu chuẩn VAS hoặc theo nguyên mẫu IFRS, thay vì đơn nhất chỉ một loại BCTC theo VAS trên toàn thị trường. Điều này đặt ra khó khăn trong việc thu thập, xử lý và đánh giá thông tin của chủ thể sử dụng BCTC, giảm tính so sánh thông tin giữa các DN cũng như tính tương thích khi tích hợp hệ thống thông tin mới theo IFRS vào hệ thống thông tin kế toán, tài chính doanh nghiệp quốc gia hiện hành, đảm bảo thông suốt trong vận hành và quản lý kinh tế ở phạm vi DN và vĩ mô nền kinh tế.

Hai giải pháp trọng tâm và mô hình kế toán "kép"

Thách thức để đảm bảo tính tuân thủ pháp lý và sử dụng “song hành” hai loại báo cáo sẽ là vấn đề cần phải quan tâm, giải quyết nhiều nhất. Quan sát việc triển khai IFRS ở các quốc gia, các thách thức này của VN là tương đối tương đồng với một số nước, chỉ khác là mức độ lớn hay nhỏ và bối cảnh với khoảng cách khá xa với quốc tế của VN hiện nay. Có thể có hai nhóm giải pháp cơ bản sau:

Giải pháp thứ nhất là yêu cầu việc triển khai IFRS chỉ được cho phép với BCTC hợp nhất, không cho phép với BCTC riêng và khi đã lựa chọn áp dụng IFRS cho BCTC hợp nhất thì đó là BCTC hợp nhất duy nhất có giá trị pháp lý luật định.

Việc chỉ cho phép áp dụng IFRS với BCTC hợp nhất vẫn đảm bảo được mục tiêu và lợi ích cốt lõi của việc áp dụng IFRS do đây đương nhiên là báo cáo phản ánh một cách toàn diện và đầy đủ nhất của tập đoàn khi DN có các công ty con, trong khi sẽ giúp tránh được thách thức lớn do yêu cầu tuân thủ pháp lý về kế toán và nghĩa vụ thuế trong việc tạo lập BCTC. Khi đó, DN chỉ phải tuân thủ theo chuẩn mực kế toán IFRS ở cấp độ tập đoàn, vốn không có tư cách pháp nhân. Tại từng công ty trong tập đoàn, các công ty vẫn đảm bảo tuân thủ các quy định pháp lý về báo cáo tài chính khi tạo lập BCTC riêng của pháp nhân công ty, bao gồm VAS, các quy định kế toán cho DNNN (nếu áp dụng) và có thể có quy định của cơ quan thuế.

Về kỹ thuật, việc chuyển đổi cho phép áp dụng IFRS ở VN có thể được hiểu là sự dịch chuyển sang mô hình kế toán quốc gia theo Hệ thống báo cáo “kép” (dual system), khi đó DN cần duy trì hệ thống để lập hai loại báo cáo, trong đó BCTC hợp nhất được lập hoặc theo IFRS hoặc VAS, trong khi BCTC riêng bắt buộc phải theo VAS (không có lựa chọn). Cả hai báo cáo này đều có giá trị pháp lý độc lập và không thay thế cho nhau do phạm vi, mục tiêu và cơ sở pháp lý để lập là khác nhau. Ngoài ra, ý nghĩa “kép” cũng có thể được hiểu, trong cùng một nhóm DN vẫn sẽ tồn tại hai loại BCTC hợp nhất do DN được quyền tự quyết định áp dụng căn cứ và nhu cầu và nguồn lực của mình.    

Tuy nhiên, ý nghĩa “kép” ở đây không nên được hiểu là sự trùng lặp BCTC về cùng một vấn đề trong một DN, gây mập mờ, khó hiểu cho chủ thể sử dụng BCTC. Mà ngược lại, với quy định “khi đã lựa chọn áp dụng IFRS cho BCTC hợp nhất thì đó là BCTC hợp nhất duy nhất có giá trị pháp lý” cũng như quy định “không cho phép với BCTC riêng ” thì, về mặt giá trị pháp lý luật định, sẽ không thể tồn tại cùng một lúc hai BCTC hợp nhất (một theo VAS, một theo IFRS) hoặc hai BCTC riêng (một theo VAS, một theo IFRS) cho một DN. Điều này giúp luôn tạo sự đồng nhất và duy nhất về thông tin tình hình tài chính của một DN ở từng cấp độ hợp nhất hoặc riêng.

Việc lựa chọn tách bạch mạnh mẽ, dứt khoát, sẽ tạo nên một làn ranh đỏ, phân định rõ ràng giúp DN đánh giá cẩn trọng khi tự đưa ra các quyết định áp dụng IFRS ở cấp độ hợp nhất, cũng như giúp chủ thể sử dụng BCTC có thể chắc chắn đang sử dụng đúng báo cáo theo đúng mục đích của mình, vừa đảm bảo nguyên tắc thị trường tự do vừa đảm bảo lộ trình chuyển đổi có kiểm soát và hiệu quả.

Kinh nghiệm quốc tế cũng cho thấy một số quốc gia trong liên minh châu Âu như Đức, Pháp, Tây ban nha, Bồ Đào Nha, Áo, Ba Lan, Rumani hay như Thụy sỹ, Nhật Bản cũng áp dụng mô hình “kép” tương tự khi quy định chỉ cho phép áp dụng IFRS với BCTC hợp nhất và không cho phép áp dụng với BCTC riêng.  

Giải pháp thứ hai là yêu cầu công bố thông tin chuyển tiếp và minh bạch định danh IFRS, cụ thể:

- Thứ nhất là yêu cầu cung cấp thông tin bổ sung để đối chiếu khác biệt giữa IFRS và VAS (reconciliation) hoặc thuyết minh các khác biệt chính của một số khoản mục trọng yếu trong hai năm sau năm đầu chuyển đổi.

Việc này có thể giải quyết phần lớn thách thức, bao gồm (i) đảm bảo tính so sánh khi chủ thể sử dụng báo cáo vẫn có thể tiếp tục sử dụng phần lớn các thông tin theo VAS trước đây ở phần thuyết minh bổ sung trong thời gian đầu chuyển đổi và (ii) đảm bảo có đủ thời gian, nguồn lực cần thiết, để chủ thể sử dụng nâng cao năng lực IFRS (đào tạo, hệ thống, chính sách, quy trình) và nâng cấp cơ chế giám sát và tuân thủ.

Mặc dù giải pháp này gây một sức ép lớn với DN, chủ thể tạo lập BCTC và có thể dẫn đến khả năng ít DN triển khai hơn do tốn kém nguồn lực lớn để đảm bảo tính tuân thủ cho hệ thống báo cáo kép nhưng đây là sự lựa chọn theo quyết định của chính DN khi cân nhắc giữa lợi ích và chi phí mà IFRS mang lại theo cơ chế “cho phép”, thay vì “bắt buộc” của cơ quan quản lý. Ngoài ra, việc “cho phép” này rất có ý nghĩa về quản lý nhà nước vì đã chuyển đổi từ tư duy không quản được thì cấm trước đây đối việc áp dụng IFRS theo luật định sang tư duy cho phép DN được làm những gì mà nhà nước không cấm, đi kèm với giải pháp quản lý, giám sát thích hợp.

Về lâu dài và tổng thể nền kinh tế, áp dụng nguyên lý về chi phí cận biên giảm dần khi quy mô áp dụng tăng lên, chi phí của việc triển khai cho mỗi doanh nghiệp áp dụng IFRS sẽ giảm dần do sự lớn mạnh và trưởng thành của hệ sinh thái cần thiết cho việc triển khai IFRS, bao gồm chất lượng nhân sự, tài liệu kiến thức IFRS chuyên sâu, sự sẵn có và tin cậy của thông tin giá trị hợp lý, mô hình ước tính, đội ngũ chuyên gia, kinh nghiệm triển khai của DN tiên phong và rất đáng chú ý, là sự trợ giúp vượt trội ngày càng tăng của trí tuệ nhân tạo tạo sinh (GenAI). Ngoài ra, chi phí triển khai IFRS cũng sẽ được tối ưu hơn nữa khi được song hành với quá trình triển khai, nâng cấp ERP cũng như chuyển đổi số của DN.

Trong trường hợp, cơ chế “cho phép” không phát huy hiệu quả thực tế khi chính sách mới được ban hành, cụ thể là số lượng DN áp dụng IFRS chất lượng cao là thấp hơn so với mục tiêu, có thể cân nhắc thêm phương án “bắt buộc” áp dụng IFRS với một số DN có đủ khả năng và nguồn lực để đảm bảo tạo ra đột phá thể chế và tính thực thi tiên phong, dẫn dắt. Phải thừa nhận rằng, trong thực tế, cũng sẽ có trường hợp, mặc dù có nguồn lực và năng lực triển khai IFRS, nhưng DN vẫn tiếp tục duy trì lựa chọn VAS do lợi ích của BCTC VAS vẫn đảm bảo, phù hợp với mục tiêu khác nhau trong các giai đoạn phát triển của DN.

Trường hợp cơ chế phát huy hiệu quả, nghĩa là thị trường đã phát triển cả về lượng và chất với thông tin tài chính lập theo IFRS, về nguyên tắc, cơ quan quản lý khi đó có thể đánh giá để chuyển sang cơ chế “bắt buộc” cho toàn bộ các DN trong cùng một nhóm đối tượng nhất định để giảm thiếu tối đa hoặc xóa bỏ các vấn đề về tính so sánh giữa các DN. Ngoài ra, cũng có thể cân nhắc việc thông báo trước một lộ trình tiến tới cơ chế “bắt buôc” cho thị trường, mặc dù việc này là tương đối khó khăn, để tạo ra tính định hướng, rõ ràng trong quy hoạch chiến lược giúp các chủ thể tạo lập và sử dụng BCTC tự xây dựng lộ trình một cách hiệu quả.

- Thứ hai là yêu cầu công bố thông tin minh bạch để định danh rõ ràng trên hệ thống công bố thông tin về DN áp dụng IFRS và BCTC được lập theo IFRS cũng như yêu cầu phải thuyết minh thông tin trên BCTC với tuyên bố tuân thủ IFRS và có thể ghi rõ ràng ngay chú thích “được lập theo IFRS” trên tiêu đề BCTC để các chủ thể sử dụng dễ dàng xác định, thu thập và đánh giá thông tin.

Việc lựa chọn mô hình “kép” về kế toán và nhất là chỉ cho phép áp dụng IFRS với các nhóm đối tượng tiên phong, đáp ứng được các tiêu chí cụ thể mà không áp dụng cho toàn bộ, ví dụ như toàn bộ các DN niêm yết như kinh nghiệm ở các quốc gia, là một quyết định khó khăn nhưng cần thiết. Đó là kết quả của bài toàn khi phải cân bằng giữa “lợi ích” của việc đạt được tính so sánh, tính đồng nhất của thông tin trên thị trường và “chi phí” quá lớn của việc triển khai cho quá nhiều DN, trong đó có nguồn lực triển khai, cơ chế giám sát tuân thủ và quan trọng nhất là việc đảm bảo chất lượng của BCTC theo IFRS, tránh chỉ mang tính hình thức, định dạng mà bản chất chưa tuân thủ, và theo đó có thể làm tổn hại đến uy tín chung của thị trường vốn Việt Nam và làm mất đi mục tiêu cốt lõi của việc áp dụng IFRS – tăng cường lòng tin của nhà đầu tư

Sự lựa chọn đó càng phù hợp và tối ưu hơn xét trong bối cảnh khác biệt lớn giữa IFRS và VAS và nhất là yêu cầu phải đổi mới nhanh, cho phép DN Việt Nam bắt kịp với thế giới, tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn nữa về kế toán và thông tin tài chính theo chuẩn quốc tế.

Ở một số nước như Nhật bản, Mỹ hay Thụy Sỹ, qua quan sát thông tin trên thị trường chứng khoán, không có nhiều điều chỉnh, sửa đổi khác biệt nào trên hệ thống thông tin giao dịch nhằm cố gắng phân biệt bằng cách dán nhãn hoặc cấu trúc riêng cho nhóm DN đang áp dung theo chuẩn mực kế toán nào, có thể vì như vậy lại tạo ra sự phân biệt đối xử không cần thiết. Thay vào đó, việc công bố tập trung về thông tin liên quan đến việc áp dụng IFRS của DN và của cơ quan quản lý trong một Chuyên mục IFRS minh bạch cũng như việc bổ sung thêm tiêu chí chuẩn mực áp dụng trong hệ thống dữ liệu công khai là có thể giúp chủ thể sử dụng BCTC chủ động tiếp cận, thu thập, phân loại và đánh giá thông tin, trong đó có thông tin tạo lập theo IFRS

Rào cản vô hình và cách vượt qua

Thực tế cho thấy, có một số quan ngại của người quản lý DN do việc áp dụng IFRS có thể tạo ra những thay đổi bất ngờ, nhiều khi là trọng yếu, trong kết quả kinh doanh và tình hình tài chính của DN và đây có thể là một rào cản “vô hình” lớn nhất khi áp dụng IFRS, không chỉ ở VN mà cũng tương đối phổ biến ở các nước trên thế giới. Quan ngại này là có cơ sở khi chủ thể sử dụng BCTC sẽ đặt câu hỏi về năng lực điều hành và trách nhiệm của người quản lý cho bất kỳ thay đổi thông tin tài chính của DN.

Về bản chất, các hoạt động kinh doanh của DN là một thực tế khách quan, vẫn luôn tồn tại như nó vốn có. Yếu tố chủ quan là việc áp dụng một hệ quy chiếu mới là IFRS và tất yếu sẽ làm thay đổi thông tin số liệu, thuyết minh trên BCTC do thực tế này sẽ được hiểu, được diễn giải và được thông tin theo một cách mới. Ngoài ra, trong quá trình “kiểm tra sức khỏe” toàn diện thường được tiến hành khi chuyển đổi này, những góc khuất của DN đã tồn tại từ lâu, khi được đặt trong  khoảng cách lớn giữa tiêu chuẩn kế toán VN hiện hành và IFRS, sẽ bộc lộ rõ nét hơn và theo đó các điều chỉnh làm thay đổi thông tin tài chính là lớn hơn, thậm chí có thể là bất ngờ cho chủ thể sử dụng BCTC.

Các giải pháp cho vấn đề này có thể bao gồm:

- Về phía DN, cần đánh giá kỹ các áp dụng miễn trừ được phép trong Chuẩn mực IFRS 1- Lần đầu tiên áp dụng IFRS, vốn đã được thiết kế dành riêng cho các DN khi thực hiện chuyển đổi, để không cần phải hồi tố lại toàn bộ các chuẩn mực, giúp giảm bớt gánh nặng và tránh truy xuất lại thông tin quá khứ, tạo ra vùng đệm an toàn về kỹ thuật IFRS.

Ngoài ra, các DN cần có lộ trình chuyển đổi sớm, bao gồm việc tập dượt giả định trước khi áp dụng chính thức để làm quen dần với thông tin số liệu mới bao gồm đánh giá tác động tuân thủ trong cam kết vay, quy định hay điều kiện đại chúng, niêm yết cũng như áp dụng truyền thông chủ động, minh bạch trước khi triển khai. Kinh nghiệm của Nhật Bản và nhiều nước cho thấy, thay vì lo ngại vấn đề trách nhiệm, người quản lý DN lại chủ động tự chuyển đổi mạnh mẽ vì uy tín và danh tiếng do IFRS là bộ chuẩn mực có tính minh bạch cao, giúp nâng cao hình ảnh của chính DN.

- Về phía chủ thể sử dụng BCTC, vấn đề truyền thông, đào tạo, nâng cao kiến thức, kỹ năng về IFRS là quan trọng, trong đó bao gồm nhận thức chung về thông tin thay đổi, nhiều khi là trọng yếu, phát sinh trong năm đầu tiên áp dụng IFRS là một hệ quả kỹ thuật bình thường để phán ánh phù hợp hơn tình hình tài chính theo một tiêu chuẩn khác, chứ không nhất thiết là do năng lực của người quản lý. Việc này giúp tránh tạo ra các phản ứng quá mức và gây áp lực không đáng có lên DN, thay vào đó, tích cực hơn, có thể là tâm lý chấp nhận “cú sốc một lần” cho năm đầu chuyển đổi.

- Về phía cơ quan quản lý, đó là vấn đề hoàn thiện thể chế để dẫn dắt và việc xây dựng hướng dẫn, sẵn sàng giải quyết các vướng mắc phát sinh trong quá trình chuyển đổi. Ví dụ, các khác biệt trong cách hiểu, cách dịch ngôn ngữ và vận dụng IFRS trong thực tế; quyền tài phán, cơ chế giải quyết tranh chấp (nếu có) khi sử dụng BCTC theo IFRS; cơ chế công bố và sử dụng thông tin; giám sát và tuân thủ; cơ chế trách nhiệm giải trình của người quản lý, nhất là cho năm đầu tiên theo định hướng: tập trung đảm bảo sự minh bạch trong hiện tại với quan điểm nhìn về phía trước để đổi mới cách thức quản trị tiên tiến.

Trong tình huống có khoảng trống về quy định pháp lý và sự chưa rõ ràng trong quản lý, cũng như chưa lường hết sự phức tạp, tác động của kết quả triển khai IFRS khi chưa có cơ sở thực tiễn, cơ chế Sandbox - Thử nghiệm có kiểm soát cũng nên được nghiên cứu để có thể sớm triển khai, linh hoạt và có kiểm soát, xét đến tầm quan trọng và mức độ ảnh hưởng của việc áp dụng IFRS này đến thị trường, cũng tương tự như cơ chế Sandbox ở lĩnh vực ngân hàng (Nghị định 94 của Chính phủ), dịch vụ tài chính ứng dụng công nghệ (Nghị quyết 222 của Quốc hội) hay tài sản số (Luật 71 của Quốc hội).

Với mục tiêu tăng trưởng cao và nhanh của Việt Nam hiện nay, cùng với quan điểm biến thể chế thành lợi thế, thành động lực tăng trưởng, quyết tâm hành động mạnh mẽ của cơ quan quản lý để dẫn dắt sự thay đổi và tạo ra chuyển biến mạnh mẽ trong việc triển khai IFRS sẽ đóng vai trò hết sức quan trọng.

Kinh nghiệm triển khai trong nước và quốc tế

Có một số kinh nghiệm tại Việt Nam hiện nay mà việc triển khai IFRS có thể tham khảo. Đó là việc triển khai chính sách chấm dứt cơ chế thuế khoán cho hộ kinh doanh, với phạm vi tác động lớn, thời gian triển khai nhanh, nội dung trực tiếp liên quan đến thông tin giao dịch kinh tế (kế toán, thuế). Chính sách này được coi là bước chuyển đổi hộ kinh doanh sang DN, theo đó có nhiều nét tương đồng với việc chuyển đổi DN từ áp dụng VAS sang IFRS. Một kinh nghiệm khác là việc hoàn thiện thể chế để vận hành, phát triển thị trường carbon với báo cáo kiểm kê khí nhà kính, báo cáo mức độ giảm nhẹ và giảm phát thải cho một số nhóm DN được lựa chọn. Sẽ luôn có nhiều lo lắng, quan ngại, nhưng thực tế triển khai đang mang lại các kết quả hết sức tích cực, chuyển đổi rõ rệt do có một điểm chung là sự vào cuộc quyết liệt, mang tính dẫn dắt từ các cơ quan quản lý nhà nước và sự chung tay, hưởng ứng của thị trường. 

Đối với kinh nghiệm áp dụng IFRS, tôi có tổng hợp ở Bảng 3 theo các nguồn thông tin đại chúng, sẵn có cho đối tượng là các công ty niêm yết ở một số quốc gia và ghi chú các điểm đáng lưu ý, bao gồm nhóm nước đã phát triển và các nước trong khu vực để có bức tranh về cách thức tiếp cận khác nhau giữa các quốc gia trong nỗ lực đạt mục tiêu tiệm cận gần nhất với IFRS .

Bảng 3: Triển khai áp dụng IFRS cho DN niêm yết ở các khu vực pháp lý

Kỳ vọng và thông điệp trọng tâm

Về giải pháp trọng tâm, đó là việc sớm sửa đổi thể chế để cho phép áp dụng IFRS với BCTC hợp nhất cho nhóm doanh nghiệp tiên phong, đáp ứng được các tiêu chí nhất định cũng như yêu cầu công bố thông tin có tính chuyển tiếp và minh bạch định danh IFRS. 

Với cơ quan quản lý, cơ quan chuyên môn, đó là quyết tâm hành động mạnh mẽ để dẫn dắt, mở ra lựa chọn mới với IFRS cũng như việc xem xét, sẵn sàng triển khai cơ chế Sandbox để kịp thời xây dựng cơ chế giải quyết các vướng mắc trong giai đoạn đầu chuyển đổi, bao gồm việc sửa đổi chính sách, cập nhật quy trình, nghiệp vụ quản lý, giám sát đối với một hệ thống thông tin mới theo IFRS

Với chủ thể sử dụng BCTC, đó là việc nâng cao kiến thức, năng lực về IFRS để không chỉ đón nhận tích cực với sự thay đổi về thông tin tài chính theo IFRS, mà hơn thế nữa, có thể đặt ra yêu cầu cao hơn với người quản lý DN trong việc lập BCTC theo chuẩn IFRS để đáp ứng nhu cầu thông tin của mình. Ngoài ra, cần chủ động thích thích ứng với bối cảnh thông tin IFRS và VAS khi sử dụng để tận dụng tối đa lợi ích mà thông tin IFRS mang lại khi xét đến nỗ lực nhiều hơn khi đánh giá tính so sánh của thông tin.

Với người quản lý DN, đó là nỗ lực vượt qua “rào cản vô hình” khi áp dụng lần đầu IFRS cũng như đầu tư nguồn lực đảm bảo tuân thủ cho hệ thống báo cáo kép và truyền thông chủ động. Với cơ chế “cho phép”, việc áp dụng IFRS là quyền tự quyết của DN khi cân nhắc giữa chi phí và lợi ích của việc triển khai IFRS trong ngắn hạn và dài hạn.  

Với sự chung tay, hưởng ứng và quyết tâm hành động của các chủ thể có liên quan, việc triển khai thành công và thu được lợi ích lớn của việc áp dụng IFRS là sớm trở thành hiện thực, giúp DN VN nâng cao năng lực cạnh tranh, sớm hội nhập sâu rộng vào thị trường tài chính quốc tế.