Toạ đàm: "Tài chính xanh trong thực tiễn, chuyển đổi hướng tới tương lai bền vững"

Phóng viên Chủ nhật, 02/11/2025 09:04 (GMT+7)

Trong khuôn khổ Hội nghị Liên đoàn Kế toán ASEAN lần thứ 24 tổ chức tại Hà Nội ngày 30 - 31/10/2025, Diễn đàn chuyên môn AFA lần thứ 24 có ba phiên toạ đàm.

Tạp chí Kế toán và Kiểm toán tiếp tục giới thiệu phiên toạ đàm thứ hai với chủ đề: "Tài chính xanh trong thực tiễn, chuyển đổi hướng tới tương lai bền vững".

Diễn giả: Ông Richard Spencer, Giám đốc Khối Bền vững Viện Kế toán Công chứng Anh và Xứ Wales (ICAEW).

Khách mời Panel:

(1) TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV & Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách của Thủ tướng Chính phủ;

(2) Ông Kevin Foo, Trưởng Khối Dịch vụ Tài chính, KPMG Malaysia;

(3) Bà Trần Thị Thúy Ngọc, Phó Tổng Giám đốc thường trực, Deloitte Việt Nam, Hội viên CPA Australia;

(4) Ông Hoàng Hùng, Chủ tịch Viện Kiểm toán viên nội bộ (IIA) Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội Thành viên Độc lập HĐQT Việt Nam (VNIDA);

(5) Bà Chu Thị Lan Hương - Chuyên gia về Môi trường, Xã hội, Tuân thủ Ngân hàng TMCP Kỹ Thương (Techcombank).

Điều phối viên: Ông Richard Spencer, Giám đốc Khối Bền vững, Viện Kế toán Công chứng Anh và xứ Wales (ICAEW).

Toạ đàm với chủ đề Tài chính xanh trong thực tiễn, chuyển đổi hướng tới tương lai bền vững

Ông Richard Spencer: Quan điểm của ông như thế nào về tài chính xanh và các mô hình thực tiễn trong khu vực ASEAN?

TS.Cấn Văn Lực: ASEAN có rất nhiều tiềm năng để tăng trưởng về các mô hình tài chính xanh, trong đó hiện nay trái phiếu xanh là một điểm nhấn. Tài chính xanh là xu hướng toàn cầu và quan điểm của nhà đầu tư, tiêu dùng, khác nhau nhưng chung quy lại đều tiến tới dịch chuyển xanh.

Thị trường trái phiếu xanh ASEAN có tiềm năng rất lớn vào năm 2050. Tại riêng thị trường Việt Nam cũng vậy, để sớm chuyển dịch cần gỡ vướng các thách thức, đặc biệt là sự hạn chế về nhận thức và chi phí phát hành. Theo định hướng của Chính phủ, để phát triển thị trường trái phiếu xanh, Việt Nam cần hoàn thiện khung pháp lý, tăng cường kiểm tra, giám sát, và sự tham gia của khu vực tư nhân. Điều này bao gồm việc xây dựng hướng dẫn kỹ thuật rõ ràng, hoàn thiện quy trình xác nhận và báo cáo, cung cấp hỗ trợ tài chính, xây dựng hạ tầng thị trường phù hợp, và khuyến khích khu vực công phát hành trái phiếu xanh để tạo chuẩn mực và quy mô cho thị trường.

Ông Richard Spencer: Với tư duy, các bên cần phải lưu ý đến các yếu tố nào?

TS.Cấn Văn Lực: Tôi quan tâm đến mô hình Thái Lan. Trong thời gian tới, Việt Nam cần có hành động cụ thể để hướng tới hành trình phát triển xanh. Cụ thể là cần cấp vốn và chính sách để điều hành sản xuất xanh.

Khái niệm và thực tiễn thì xanh hoá vẫn là sự mở rộng nhiều hướng cơ hội hơn là đầu tư. Vì, thực tế, xanh là đầu tư tăng lợi ích, không phải tăng chi phí. Cũng cần phân loại để cho một số ngành ưu tiên xanh hoá trước, hướng triển khai cần kết hợp liên kết cơ quan chức năng, doanh nghiệp, nhà đầu tư và khách hàng. Các thị trường quốc tế đều đang cần sản phẩm xanh và cần đáp ứng yêu cầu cơ bản để xuất khẩu.

Bà Trần Thị Thúy Ngọc, Phó Tổng Giám đốc thường trực, Deloitte Việt Nam, Hội viên CPA Australia: Trong thời gian gần đây, Quốc hội rất ưu tiên cho các doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi xanh được hưởng mức thuế ưu đãi 2%. Các định chế tài chính tại Việt Nam cũng đang mong muốn tìm kiếm thêm những chính sách cụ thể từ Chính phủ – bao gồm cả khối nhà nước và tư nhân – để đảm bảo đáp ứng nhu cầu vốn cho khách hàng.

Việt Nam đang đẩy mạnh các khoản vay tài chính xanh, và tốc độ tăng trưởng này ngày càng cao hằng năm. Nếu doanh nghiệp không tập trung vào yếu tố “tài chính xanh” thì sẽ có nguy cơ tụt hậu trên thị trường. Thế hệ trẻ hiện nay sẵn sàng chi trả cho các sản phẩm và dịch vụ thân thiện với môi trường, do đó đây không chỉ là xu hướng thị trường, mà còn là nhu cầu nội tại từ chính các tổ chức.

Thông thường, chúng ta hay nhìn nhận chuyển đổi xanh như một vấn đề về quy định hoặc chi phí. Tuy nhiên, ngoài chi phí trước mắt, đây chính là cơ hội dài hạn – đặc biệt khi doanh nghiệp đã có cam kết rõ ràng về ESG. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu, nếu sản phẩm và mô hình kinh doanh không thay đổi, doanh nghiệp sẽ khó đứng vững. Hiện tại, để tránh điều này xảy ra, các doanh nghiệp đang chủ động chuyển đổi sang mô hình kinh tế tuần hoàn, phát triển sản phẩm mới để giảm thiểu tác động tiêu cực và bảo vệ môi trường.

Chuyển đổi xanh không chỉ là câu chuyện của sản phẩm, mà còn liên quan đến kỹ năng, quy trình, và việc tích hợp các tiêu chuẩn kinh doanh mới. Doanh nghiệp không thể tự làm tất cả — cần có sự phối hợp và hỗ trợ lẫn nhau. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp đã và đang có những bước tiến tích cực, đồng thời kỳ vọng nhận được thêm hỗ trợ chính sách từ Chính phủ.

Trong lĩnh vực nghề nghiệp của chúng ta, khối lượng công việc rất lớn và sự cạnh tranh giữa các công ty tư vấn cũng ngày càng mạnh mẽ. Năm 2025, Chính phủ sẽ đưa ra các tiêu chuẩn mới, và các nhà đầu tư cần nỗ lực để đáp ứng những yêu cầu đó, phù hợp với bối cảnh thị trường đang thay đổi nhanh chóng.

Đối với Deloitte cũng như các công ty tư vấn khác, chúng tôi hiểu rằng công việc không chỉ dừng lại ở việc quản lý sổ sách, mà còn là nhiệm vụ cung cấp thông tin giúp Hội đồng Quản trị ra quyết định đúng đắn. Chúng tôi nhận thức rõ tác động và nghĩa vụ của các bên khi sử dụng tài nguyên của Trái đất – làm sao để biến “ngoại lực” thành “nội lực” nhằm cùng nhau phát triển bền vững.

Trước hết, việc sử dụng các công cụ kiểm kê phát thải là bước khởi đầu quan trọng để có thể tiến hành đánh giá toàn diện về tài sản ròng và hoạch định những bước tiếp theo trong chiến lược phát triển bền vững.

Hiện nay, ở cấp độ quốc gia cũng như từng tổ chức, chúng ta đang nỗ lực chuẩn bị và triển khai các bước theo phạm vi phát thải S1, S2 trước khi tiến tới S3, S4 — bởi doanh nghiệp cần thời gian để xây dựng năng lực và hệ thống quản lý phù hợp.

Việc đối chiếu, so sánh các chuẩn mực báo cáo bền vững là rất cần thiết, đặc biệt khi doanh nghiệp lựa chọn sử dụng sản phẩm hay dịch vụ liên quan đến phát triển bền vững. Điều này không chỉ giúp nâng cao tính minh bạch mà còn tăng uy tín với nhà đầu tư và cộng đồng.

Quay trở lại Việt Nam, chúng ta đang chứng kiến sự phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước và các bên liên quan để thúc đẩy quá trình chuyển đổi này. Những nỗ lực chung đó sẽ góp phần tạo nên sự thay đổi tích cực cho xã hội, mang lại lợi ích lâu dài cho nền kinh tế và cộng đồng doanh nghiệp.

Ông Richard Spencer: Vậy đối với ngân hàng thì sao? Chúng tôi muốn lắng nghe những chia sẻ từ phía một ngân hàng – đâu là những yếu tố chính được lồng ghép vào hoạt động và chiến lược kinh doanh trong hành trình phát triển bền vững?

Bà Chu Thị Lan Hương: Thế hệ trẻ chính là tương lai, và điều đó đặt ra cho các ngân hàng như chúng tôi trách nhiệm trong việc tích hợp các yếu tố phát triển bền vững vào chiến lược vận hành và quản trị.

Tại Techcombank, chúng tôi đã thành lập Hội đồng Cố vấn ESG, thường xuyên họp để cung cấp thông tin và khuyến nghị cho Ban Lãnh đạo. Các yếu tố Môi trường – Xã hội – Quản trị (ESG) được lồng ghép xuyên suốt trong mọi hoạt động của ngân hàng – từ hoạch định chiến lược, quản trị rủi ro cho đến vận hành nghiệp vụ.

Chúng tôi xây dựng một cấu trúc rõ ràng, trong đó ESG không chỉ là cam kết, mà còn là thành phần cốt lõi trong chiến lược kinh doanh. Việc triển khai được thiết kế dựa trên đặc thù từng phân khúc khách hàng, từng ngành nghề, và theo dõi thông qua các tiêu chí đánh giá cụ thể.

Techcombank cũng triển khai chính sách sản phẩm như gói cho vay xanh, dành cho các khách hàng đáp ứng quy định ESG. Đồng thời, chúng tôi có đội ngũ tư vấn chuyên biệt nhằm hỗ trợ doanh nghiệp hướng tới các mục tiêu phát triển bền vững, giúp cùng nhau tạo ra giá trị dài hạn cho xã hội và môi trường.

Về mặt chính sách quốc gia, Chiến lược Tăng trưởng Xanh giai đoạn 2021–2050 của Chính phủ đã đề ra 8 nhóm giải pháp trọng tâm để huy động nguồn tài chính xanh. Các công cụ như trái phiếu xanh, khoản vay xanh, và cơ chế ưu đãi thuế 2% cho doanh nghiệp tư nhân khi tham gia các dự án xanh là những bước đi phù hợp, cần được triển khai rõ ràng và đồng bộ hơn nữa.

Ngành tài chính Việt Nam đang ở giai đoạn tăng tốc, và để thúc đẩy mạnh mẽ hơn, cần có cơ chế chính sách nhất quán, minh bạch từ phía Chính phủ, tạo nền tảng cho các tổ chức tài chính và doanh nghiệp cùng tham gia, chung tay xây dựng một hệ sinh thái kinh tế xanh – bền vững cho tương lai.

Ông Richard Spencer: Tầm nhìn của các ngân hàng tại Việt Nam trong thời gian tới sẽ như thế nào?

Bà Chu Thị Lan Hương: Tham vọng của Techcombank không chỉ nằm ở việc phát triển các sản phẩm tài chính bền vững, mà còn ở việc đồng hành cùng các doanh nghiệp Việt Nam nói chung trên hành trình chuyển đổi xanh.

Chúng tôi mong muốn hỗ trợ doanh nghiệp trong toàn bộ quá trình – từ trước, trong và sau khi triển khai dự án, bao gồm việc đánh giá và so sánh để xác định liệu dự án có đáp ứng đủ điều kiện nhận ưu đãi từ Chính phủ hay không.

Bên cạnh đó, Techcombank cũng hướng đến việc khoả lấp những khoảng trống cần thiết trong việc tiếp cận nguồn lực và chính sách, nhằm giúp doanh nghiệp đạt được các tiêu chuẩn phát triển bền vững.

Chúng tôi xem mình là đối tác lâu dài, đồng hành cùng doanh nghiệp Việt Nam không chỉ về mặt tài chính, mà còn trong việc tư vấn và hỗ trợ chiến lược để cùng nhau phát triển bền vững trong thời gian tới.

Ông Richard Spencer: Vậy còn đối với Kiểm toán nội bộ, theo anh, chức năng này có vai trò như thế nào trong việc thúc đẩy doanh nghiệp tiến tới ESG và thực hiện chức năng giải trình một cách hiệu quả?

Ông Hoàng Hùng: Từ góc nhìn của kiểm toán nội bộ, thành viên độc lập trong ban điều hành và hội đồng quản trị đóng vai trò hết sức quan trọng. Họ là những người giám sát và đảm bảo doanh nghiệp đi đúng định hướng đã được cổ đông đề ra.

Với các cổ đông, mục tiêu cuối cùng là lợi nhuận, nhưng hiện nay, “lợi nhuận xanh” – tức là lợi nhuận gắn với yếu tố bền vững – đang trở thành xu thế tất yếu. Vì vậy, các công ty cần đầu tư nghiêm túc vào báo cáo bền vững, đảm bảo tuân thủ các quy định về môi trường – xã hội – quản trị (ESG). Khi những thành viên độc lập trong Ban giám đốc nhận thấy giá trị dài hạn từ việc “xanh hoá” hoạt động kinh doanh, họ sẽ định hướng và yêu cầu bộ phận kế toán, kiểm toán cùng đi theo hướng đó.

Vác yếu tố quan trọng thúc đẩy doanh nghiệp tiến tới gần hơn với ESG

Thứ nhất, từ phía Chính phủ, các chính sách khuyến khích tuân thủ tiêu chuẩn xanh đang trở thành động lực quan trọng cho doanh nghiệp.

Thứ hai, trong chuỗi cung ứng toàn cầu, các yêu cầu ESG ngày càng nghiêm ngặt. Nếu doanh nghiệp không đáp ứng được, họ có thể mất cơ hội xuất khẩu, hoặc bị loại khỏi chuỗi cung ứng của các tập đoàn quốc tế. Điều này cũng phản ánh nhu cầu từ phía khách hàng – họ ngày càng ưu tiên các sản phẩm và dịch vụ thân thiện với môi trường.

Thứ ba, động lực tài chính là một yếu tố then chốt. Khi doanh nghiệp đáp ứng tiêu chuẩn ESG, họ có thể tiếp cận nguồn vốn ưu đãi, như khoản vay xanh từ ngân hàng, với chi phí vốn thấp hơn. Điều này giúp tăng khả năng cạnh tranh và đảm bảo dòng tiền ổn định cho hoạt động dài hạn.

Từ vai trò của kiểm toán nội bộ, chúng tôi nhấn mạnh rằng doanh nghiệp cần có cơ chế giám sát nội bộ mạnh mẽ, nhằm đảm bảo việc tuân thủ và minh bạch trong các hoạt động ESG.

Về dài hạn, ESG cần được xem là mục tiêu chiến lược, không chỉ là yêu cầu tuân thủ. Doanh nghiệp cần phân bổ nguồn lực, xây dựng đội ngũ chuyên trách, và đưa ESG vào chương trình nghị sự nội bộ để nâng cao năng lực chống chịu, hướng tới phát triển bền vững qua từng giai đoạn tăng trưởng.

Một trong những động lực quan trọng khác thúc đẩy doanh nghiệp hướng tới ESG chính là nguồn vốn. Khi doanh nghiệp cần vay vốn hoặc huy động vốn chủ sở hữu, việc đáp ứng các tiêu chí ESG sẽ giúp họ tiếp cận được các khoản vay ưu đãi từ ngân hàng. Đây là cơ chế rất tốt, giúp doanh nghiệp có dòng tiền với chi phí thấp, đồng thời được hưởng chính sách ưu đãi tài chính để mở rộng đầu tư.

Chúng tôi cho rằng, để tận dụng được các chính sách này, doanh nghiệp cần có bộ máy nội bộ đủ năng lực nhằm đánh giá, theo dõi và đảm bảo tuân thủ các yêu cầu về ESG. Chỉ khi đó, họ mới có thể áp dụng và hưởng lợi thực sự từ các chính sách hỗ trợ của Chính phủ và các tổ chức tài chính.

Về mặt dài hạn, doanh nghiệp cần nâng cao khả năng chống chịu trước biến động của thị trường và môi trường. Điều này đòi hỏi chuyển đổi ESG từ yêu cầu tuân thủ sang mục tiêu chiến lược, coi đó là cơ hội để phát triển bền vững.

Để làm được điều này, doanh nghiệp cần phân bổ nguồn lực hợp lý, xây dựng đội ngũ chuyên trách nội bộ, và đưa ESG vào chương trình nghị sự của tổ chức – từ hoạch định chiến lược đến vận hành hằng ngày – nhằm đáp ứng các chỉ tiêu ESG trong từng giai đoạn phát triển khác nhau.

Bà Trần Thị Thúy Ngọc, Phó Tổng Giám đốc thường trực, Deloitte Việt Nam, Hội viên CPA Australia: Để thay đổi được tư duy, thông luật làm việc với các cơ quan nhà nước, sẽ xem xét tiếp cận trên thị trường,.. làm việc với trường đại học, gv để chia sẻ thông tin. Trong khuân khổ các quốc gia ASEAN có thể làm được điều đó, các quốc gia học hỏi nhau. Với nhũng dk này, diễn đàn chuyên môn này, DN có thể chia sẻ bài học hay bào học tốt để phát học hỏi..

Câu hỏi từ khán giả: Lộ trình triển khai của Việt Nam đối với IFRS (Chuẩn mực Báo cáo Tài chính Quốc tế) sẽ diễn ra khi nào? Khi nào các doanh nghiệp tại Việt Nam có thể tiếp cận và áp dụng?

Ông Richard Spencer: Việt Nam đang lên kế hoạch bắt đầu áp dụng IFRS từ năm tới. Mục tiêu của chúng tôi là xây dựng chuẩn mực kế toán và kiểm toán Việt Nam tiệm cận dần với IFRS, để việc chuyển đổi và triển khai được thuận lợi, dễ dàng hơn cho doanh nghiệp.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đặt mục tiêu hội nhập tài chính quốc tế sâu rộng hơn. Hiện nay, nhiều quốc gia trong khu vực châu Á và các tổ chức quốc tế lớn đã áp dụng IFRS, vì vậy Việt Nam cần bắt kịp xu hướng này trong thời gian tới.

Một yếu tố không thể thiếu là giáo dục và đào tạo. Ngành giáo dục đóng vai trò rất quan trọng trong việc chuẩn bị nguồn nhân lực cho quá trình chuyển đổi tài chính xanh. Chúng tôi kỳ vọng rằng các nội dung về tài chính xanh, ESG và IFRS sẽ sớm được lồng ghép vào chương trình đào tạo tại các trường đại học. Đồng thời, các tổ chức nghề nghiệp cũng sẽ là những đơn vị tiên phong phối hợp và hỗ trợ công tác đào tạo trong giai đoạn tới.

Để thành công với lộ trình xanh và hội nhập IFRS, chúng tôi cho rằng các tổ chức tài chính cần đáp ứng ba yêu cầu:

Chúng tôi tin rằng với nội lực sẵn có, Việt Nam hoàn toàn có thể hiện thực hóa các mục tiêu chuyển đổi xanh và hội nhập IFRS, không chỉ trên giấy tờ, mà bằng hành động cụ thể và kết quả thực tế.

Ông Richard Spencer: Anh/chị có thể chia sẻ rõ hơn về quá trình chuyển đổi ESG trong các ngành khác nhau hiện nay được không?

Bà Chu Thị Lan Hương: Từ kinh nghiệm thực tế khi làm việc với nhiều khách hàng trong các lĩnh vực khác nhau, chúng tôi nhận thấy mỗi ngành có một cách tiếp cận riêng trong quá trình chuyển đổi ESG. Hiện chúng tôi đang đồng hành cùng khoảng 20 ngành nghề, mỗi ngành có chủ đề và trọng tâm khác nhau, tuy nhiên tất cả đều có một điểm chung – đó là phát thải khí nhà kính (GHG), ngoại trừ một số ngành đặc thù như y tế.

Ví dụ, đối với ngành dệt may và thép, các doanh nghiệp hiện đang chịu tác động mạnh từ Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) do Liên minh châu Âu (EU) ban hành. Điều này đòi hỏi họ phải tính toán và báo cáo phát thải carbon chính xác, nếu không sẽ gặp khó khăn khi xuất khẩu vào thị trường châu Âu.

Mỗi ngành nghề và thị trường khác nhau đều có bộ tiêu chí riêng về ESG. Chẳng hạn, Nike – một tập đoàn toàn cầu – có tới 22 tiêu chí ESG dành cho các nhà cung ứng. Do đó, nếu doanh nghiệp Việt Nam muốn tham gia chuỗi cung ứng quốc tế, họ bắt buộc phải đáp ứng được những tiêu chuẩn khắt khe này.

Dù khác nhau về lĩnh vực, yếu tố phát thải khí nhà kính vẫn luôn là điều kiện tiên quyết và điểm chung cốt lõi trong mọi chiến lược ESG của các doanh nghiệp hiện nay.

Ông Richard Spencer: Trân trọng cảm ơn các diễn giả khách mời. Với các nội dung gợi ý nêu trên, có thể hình thành khung liên kết giữa công bố bền vững và quyết định tài trợ, cùng một bộ tiêu chí tác động cốt lõi để các tổ chức tài chính tham khảo khi thiết kế sản phẩm xanh và quy trình thẩm định - giám sát. Mục tiêu nhất quán là yêu cầu phù hợp với doanh nghiệp nhưng vẫn minh bạch, tin cậy và hiệu quả, để dòng vốn xanh đi đúng nơi, đúng chỗ, đúng mục tiêu, thời điểm.