1. Đặt
vấn đề
Dựa
trên GRI Perspective 1 – Business case for environment and society (Global
Reporting Initiative, 2022), thông tin từ các khoản đầu tư của doanh nghiệp vào
môi trường và xã hội có thể được so sánh qua các bảng xếp hạng, nâng cao khả
năng ra quyết định của cổ đông và bên liên quan. Bên cạnh giá trị tài chính
trong báo cáo, các bên liên quan cũng chú trọng đến đóng góp của doanh nghiệp
đối với môi trường và xã hội, vì điều này phản ánh trách nhiệm xã hội và có thể
mang lại lợi thế cạnh tranh trong tương lai.
Chẳng hạn, đầu tư vào phát triển
bền vững sẽ nâng cao hình ảnh doanh nghiệp đối với cộng đồng, từ đó tăng doanh
thu và thị phần ESG đang ngày càng thu hút được sự quan tâm của các doanh
nghiệp Việt Nam. Sự chuyển biến tích cực này nhờ vào các chính sách thúc đẩy từ
phía Chính phủ, song hành với nhu cầu đầu tư ngày càng tăng cao vào các hình
thức đầu tư xanh và bền vững. Theo báo cáo của Pwc (2024), 80% số doanh nghiệp
cam kết thực hành ESG và đã lên kế hoạch thực hiện mục tiêu phát triển bền vững
về môi trường, xã hội và quản trị trong tương lai gần. Ở Việt Nam, mặc dù hầu
hết các doanh nghiệp Việt Nam chỉ mới tiếp tiếp cận ESG, nhưng có một số ngành
như ngân hàng, bảo hiểm, F&B và năng lượng đã tích hợp báo cáo phát triển
bền vững vào trong báo cáo thường niên của mình.
Đặc
biệt, các ngân hàng thương mại Việt Nam đang ghi nhận những bước tiến ngày càng
rõ rệt và tích cực trong hành trình phát triển bền vững. Bên cạnh đó, trong
ngành tài chính ngân hàng, các văn bản Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước ban hành
cũng được lồng ghép các yếu tố về môi trường, xã hội và quản trị. Điều này cũng
hỗ trợ các tổ chức trong ngành tài chính ngân hàng để có thể dễ dàng tiếp cận
và triển khai thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững hiệu quả hơn (Loan và
cộng sự, 2024).
Ngoài
ra, các ngân hàng thương mại cũng được đánh giá là có cải thiển trong việc thực
hiện theo tiêu chuẩn ESG. Cụ thể, Tài chính công bằng Việt Nam (Fair Finance
Vietnam) đã thực hiện 2 lần đánh giá (vào năm 2020 và 2022) về mức độ tương
thích giữa chính sách các ngân hàng công bố với tiêu chí ESG theo tiêu chuẩn
quốc tế. Kết quả phân tích cho thấy năm 2020 có 10 ngân hàng cam kết về chính
sách ESG. Năm 2021 có thêm 1 ngân hàng tham gia. Điều này cho thấy sự gia tăng
nhận thức và quan tâm đến ESG, cũng như xu hướng tích cực về việc phát triển
bền vững của các ngân hàng. Đặc biệt, ở khía cạnh quản trị, các chính sách về
tham nhũng, bảo vệ quyền lợi khách hàng, minh bạch về thuế và các khoản nộp nhà
nước đều được tất cả các ngân công khai với mức độ giải trình khác nhau.
Trong
hệ thống NHTM tại Việt Nam, có 19 trên tổng số 37 NHTM thực hiện công bố báo
cáo phát triển bền vững. Hầu hết các ngân hàng đã thực hiện công bố thông tin
liên quan đến báo cáo phát triển bền vững dựa trên tham khảo theo bộ tiêu chuẩn
của Hướng dẫn lập báo cáo phát triển bền vững của Tổ chức sáng kiến toàn cầu
(Global Reporting Initiative - GRI).
Báo
cáo phát triển bền vững đều được tích hợp trong báo cáo thường niên của ngân
hàng. Trong nhóm ngân hàng thuộc Big4 như Agribank, Vietinbank, BIDV,
Vietcombank đều công bố báo cáo thường niên theo tiêu chuẩn này. Trong
nhóm ngân hàng TMCP tại Việt Nam, có một số ngân hàng đã triển khai công bố
thông tin liên quan đến báo cáo phát triển bền vững cũng dựa trên tiêu chuẩn
GRI. Các ngân hàng thuộc nhóm này có thể kể đến như VPBank, Sacombank, HD Bank,
OCB, MB bank, VIB, VPB, SeaBank. Báo cáo phát triển bền vững của các ngân hàng
này công bố dựa trên 4 tiêu chuẩn: GRI 100 - Tiêu chuẩn tổng thể, GRI 200 -
Tiêu chuẩn kinh tế, GRI 300 - Tiêu chuẩn môi trường, GRI 400 - Tiêu chuẩn xã
hội và được tích hợp trong báo cáo thường niên. Từ năm 2023, ngân hàng TMCP Á
Châu (ACB) đã thực hiện công bố lần đầu báo cáo phát triển bền vững một cách
độc lập và cũng dựa trên tiêu chuẩn GRI.
Ngoài ra, một số ngân hàng TMCP khác cũng thực hiện kết hợp trình bày
báo cáo phát triển bền vững như 1 phần trong báo cáo thường niên bằng việc công
bố một số hoạt động thể hiện trách nhiệm xã hội của ngân hàng mình. Trong báo
cáo phát triển bền vững của TP Bank, ngân hàng này công bố thông tin về ngân
hàng số, chuyển đổi số, tín dụng xanh. Ngân hàng SHB trình bày thông tin về các
chính sách dành cho người lao động và thực hiện văn hóa doanh nghiệp; các hoạt
động xã hội và các hoạt động sản xuất - kinh doanh đi kèm với tác động của
chúng đến môi trường. Ngân hàng Eximbank công bố các chính sách liên quan đến
người lao động, hoạt động vì cộng đồng, quản lý nguồn nguyên vật liệu, tiêu thụ
năng lượng, công tác quản lý trách nhiệm môi trường.
Đối với nhóm NHTM 100% vốn nước ngoài,
CIMB phát hành báo cáo phát triển bền vững cho toàn bộ hệ thống
ngân hàng thuộc CIMB Group, không tập trung báo cáo tình hình phát
triển bền vững tại Việt Nam. Trong báo cáo phát triển bền vững của
CIMB Group, ngân hàng này thực hiện công bố theo tiêu chuẩn GRI bao gồm
các tiêu chí như là tổ chức và hoạt động của tổ chức, các hoạt
động và người lao động, quản trị, chiến lược, chính sách và hoạt
động, vật liệu, tài chính bền vững, an ninh mạng và quyền riêng tư
dữ liệu, số hóa và đổi mới, quyền con người, biến đổi khí hậu.
Với sự phát triển mạnh mẽ của ESG trong bối
cảnh toàn cầu, đặc biệt là ngành ngân hàng, việc nghiên cứu lĩnh vực này càng
trở nên cấp thiết. ESG không chỉ góp phần định hình về chiến lược phát triển,
mà còn gắn với hiệu quả tài chính bền vững của các ngân hàng. Tuy nhiên, các
nghiên cứu hiện nay chủ yếu tập trung riêng lẻ vào báo cáo phát triển bền vững
hoặc báo cáo tài chính, trong khi nghiên cứu về mối liên hệ và sự tích hợp giữa
2 báo cáo này vẫn còn hạn chế. Nghiên cứu này hướng đến việc bổ sung vào khoảng
trống nghiên cứu, đem lại đóng góp thiết thực về mặt lý thuyết và ứng dụng.
2. Tổng quan về khung pháp lý và các
nghiên cứu trước đây
2.1.
Các chuẩn mực và quy định quốc tế
Theo
Chuẩn mực báo cáo tài chính Quốc tế IFRS, mục tiêu của báo cáo tài chính là
“cung cấp thông tin về tài sản, nợ phải trả, vốn chủ sở hữu, thu nhập và chi
phí”. Thông tin này giúp người sử dụng đánh giá triển vọng dòng tiền trong
tương lai và khả năng quản lý của ban lãnh đạo. Năm 2024, Uỷ ban Chuẩn mực Kế
toán Quốc tế (IASB) công bố chuẩn mực mới IFRS 18 “Trình bày và Công bố Báo cáo
tài chính”, thay thế IAS 1 và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2027. Chuẩn mực
này sẽ nâng cao khả năng so sánh và tính minh bạch của báo cáo tài chính, cải
thiện tính hữu ích cho nhà đầu tư (Deloitte, 2024).
Tổ
chức sáng kiến báo cáo toàn cầu (GRI) đã phát triển nhiều phiên bản tiêu chuẩn
báo cáo bền vững qua các năm. Năm 1999, phiên bản đầu tiên (GRI 1) ra đời, nhấn
mạnh các nguyên tắc cơ bản về báo cáo phát triển bền vững. Phiên bản GRI 2 được
giới thiệu vào năm 2002, mở rộng các chỉ số báo cáo và tập trung vào tính minh
bạch và trách nhiệm xã hội. Phiên bản GRI G3, phát hành vào năm 2006, đã cung
cấp hướng dẫn chi tiết hơn về quy trình báo cáo cùng các chỉ số cụ thể. GRI
G3.1, phiên bản cập nhật vào năm 2011, điều chỉnh và bổ sung nhiều chỉ số mới.
Năm 2013, GRI G4 đã được phát hành với mục tiêu nâng cao tính phù hợp và sự
liên quan của thông tin báo cáo đối với các bên liên quan. Cuối cùng, phiên bản
tiêu chuẩn hiện tại, GRI Standards, được phát hành vào năm 2016, bao gồm các
tiêu chuẩn như GRI 101, GRI 102 (các yêu cầu chung), GRI 103 (quản lý) và nhiều
tiêu chuẩn cụ thể khác cho các lĩnh vực khác nhau. GRI tiếp tục cập nhật và cải
tiến các tiêu chuẩn để đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và xã hội trong việc báo
cáo về bền vững. Tổ chức Tiêu chuẩn quốc tế (International Standards
Organization - ISO) cũng có những phát triển về tiêu chuẩn khác nhau liên quan
đến phát triển bền vững. ISO 26000 được ban hành năm 2010 nhằm hướng dẫn về
trách nhiệm xã hội, cung cấp các nguyên tắc và chủ đề liên quan đến việc thực
hiện trách nhiệm xã hội trong tổ chức. Năm 2018, phiên bản ISO 45001 ra đời
nhằm đưa ra tiêu chuẩn về hệ thống quản lý an toàn và sức khỏe nghề nghiệp, với
mục tiêu cải thiện môi trường làm việc và bảo vệ sức khỏe của người lao động.
Cả
chuẩn mực IFRS và bộ tiêu chuẩn về báo cáo phát triển bền vững như GRI hay ISO
đều hướng đến việc cung cấp thông tin tài chính và phi tài chính, trong đó các
thông tin phi tài chính của ESG không tách biệt khỏi mục tiêu tài chính, mà bổ
sung mở rộng phạm vi, phản ảnh đầy đủ hơn khả năng tạo ra giá trị dài hạn của
doanh nghiệp. Ngoài ra, mối quan hệ bổ sung lẫn nhau này cũng cùng hướng tới
mục đích nâng cao tính hữu ích của thông tin đối với người sử dụng bên ngoài,
ví dụ như cơ quan thuế của Nhà nước và các nhà đầu tư. Sự phát triển song song
về chuẩn mực của 2 loại báo cáo cũng tạo điều kiện cho xu hướng hội tụ và tích
hợp 2 loại thông tin.
2.2. Tại Việt Nam
Theo
khoản 1 Điều 3 của Luật Kế toán số 88/2015/QH13, báo cáo tài chính là hệ thống
thông tin kinh tế và tài chính của đơn vị kế toán, trình bày theo mẫu quy định
trong chuẩn mực kế toán. Theo Điều 100 của Thông tư 200/2014/TT-BTC, hệ thống
báo cáo tài chính của doanh nghiệp bao gồm báo cáo tài chính năm và báo cáo tài
chính niên độ, trong đó báo cáo tài chính năm gồm: Bảng cân đối kế toán, Báo
cáo kết quả hoạt động kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ và Bản thuyết minh
báo cáo tài chính. Đối với doanh nghiệp, ngoài THông tư 200, Thông tư
133/2016/TT-BTC được Bộ Tài chính ban hành ngày 26/8/2016, nhằm hướng dẫn chế độ kế toán
cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, Thông tư 132/2018/TT-BTC quy định chế độ kế toán
cho doanh nghiệp siêu nhỏ. Thông tư 48/2019/TT-NHNN quy định cho các tổ chức
tín dụng, yêu cầu các tổ chức tín dụng lập báo cáo tài chính hàng năm và gửi
đến Ngân hàng Nhà nước, đồng thời thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính hàng
năm bởi đơn vị kiểm toán độc lập để nâng cao tính minh bạch và chất lượng thông
tin tài chính.
Thông tư 155/2015/TT-BTC (Bộ Tài chính, 2015) hướng dẫn
công bố thông tin trên thị trường chứng khoán đề cập đến việc công bố thông tin
liên quan đến tác động môi trường và xã hội của công ty. Đầu tiên, nội dung
quản lý nguồn nguyên vật liệu cung cấp thông tin về lượng nguyên vật liệu tiêu
thụ trong quá trình sản xuất và đóng góp thành phẩm, dịch vụ chính trong năm,
tỷ lệ nguyên vật liệu có thể tái chế trong quy trình sản xuất. Thứ hai, nội
dung tiêu thụ năng lượng sẽ cung cấp thông tin về năng lượng tiêu thụ trực tiếp
và gián tiếp, bao gồm năng lượng tiết kiệm được từ các sáng kiến sử dụng năng
lượng hiệu quả và các báo cáo về những sáng kiến tiết kiệm năng lượng. Thứ ba,
nội dung về tiêu thụ nước sẽ thông báo về nguồn nước và khối lượng nước sử
dụng, tỷ lệ phần trăm và tổng lượng nước đã tái chế và tái sử dụng. Thứ tư, nội
dung tuân thủ pháp luật về bảo vệ môi trường sẽ báo cáo số lần bị xử phạt do vi
phạm quy định pháp luật về môi trường, cũng như tổng số tiền bị phạt liên quan
đến các vi phạm này. Thứ năm là các nội dung liên quan đến chính sách đối với
người lao động, bao gồm số lượng nhân viên, mức lương trung bình của người lao
động; chính sách bảo đảm sức khỏe, an toàn và phúc lợi cho nhân viên; và các
hoạt động đào tạo dành cho nhân viên. Cuối cùng, nội dung liên quan đến trách
nhiệm đối với cộng đồng địa phương sẽ bao gồm các hoạt động đầu tư cộng đồng và
các sáng kiến phát triển khác, như hỗ trợ tài chính cho cộng đồng. Ngoài ra,
các báo cáo liên quan đến hoạt động thị trường vốn xanh được trình bày theo
hướng dẫn của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.
Mặc dù hệ thống báo cáo tài chính tại Việt Nam chủ yếu
tập trung vào các thông tin định lượng phản ánh tình hình tài chính, nhưng
trong bối cảnh chuyển dịch sang phát triển bền vững, các yếu tố phi tài chính
thể hiện trách nhiệm với xã hội và môi trường ngày càng đóng vai trò quan
trọng. Điều này được thể hiện rõ trong Thông tư 155/2015/TT-BTC – văn bản đầu
tiên yêu cầu công bố thông tin ESG tại Việt Nam trên thị trường chứng khoán.
Các thông tin ESG được công bố tuy không trực tiếp phản ánh trong báo cáo tài
chính, nhưng lại có tác động đáng kể đến các yếu tố như chi phí và khả năng thu
hút vốn đầu tư, đây đều là những yếu tố có liên hệ chặt chẽ với các chỉ tiêu
tài chính.
2.3. Các nghiên cứu
trước đây về mối quan hệ giữa thông tin tài chính và thông tin phát triển bền
vững
Nhiều nghiên cứu trên thế giới và ở Việt Nam đã xem xét
các khía cạnh khác nhau của mối quan hệ giữa thông tin tài chính và thông tin
phát triển bền vững. Việc công bố thông tin tài chính đóng vai trò thiết yếu
trong quá trình chuyển đổi số của doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy sự phát triển
hiệu quả và đổi mới sáng tạo (Wang & He, 2024). Những nỗ lực trong quản lý
nhằm nâng cao tính minh bạch về tác động xã hội và môi trường của doanh nghiệp
đã chứng minh hiệu quả trong việc cải thiện cam kết cũng như chất lượng công bố
thông tin (Cicchiello et al., 2022). Việc công bố các thông tin liên quan đến
ESG có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả tài chính của doanh nghiệp (Chen &
Xie, 2022). Để đánh giá xem việc công bố thông tin về môi trường có góp phần
nâng cao hiệu quả tài chính hay không, Wang và các cộng sự (2020) đã chỉ ra
rằng công bố thông tin môi trường không chỉ tác động tích cực trực tiếp đến
hiệu quả tài chính mà còn ảnh hưởng gián tiếp qua các yếu tố như số lượng nhà
phân tích và số lượng báo cáo, cũng như tính thanh khoản của doanh nghiệp.
Tại Việt Nam, nghiên cứu của Phạm (2022) đã chỉ ra rằng
có bốn yếu tố chính ảnh hưởng đến chất lượng thông tin báo cáo tài chính, bao
gồm sự hỗ trợ từ ban lãnh đạo, năng lực của nhân viên kế toán, hiệu quả của hệ
thống kiểm soát nội bộ, và việc áp dụng IFRS. Đối với các ngân hàng thương mại,
yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất đến chất lượng thông tin báo cáo tài chính là đào
tạo nhân viên, tiếp theo là quản trị ngân hàng, chất lượng phần mềm kế toán,
năng lực của nhân viên kế toán, và áp lực thuế (Thúy, 2019). Về việc công bố
thông tin ngân hàng xanh, một nghiên cứu vào năm 2022 cho thấy chỉ có 17 trong
số 20 ngân hàng thương mại tại Việt Nam trình bày nội dung này trên báo cáo,
tuy nhiên chưa đầy đủ (Nguyên & Thiều, 2023). Tham gia vào trách nhiệm xã
hội nâng cao hình ảnh của doanh nghiệp, tăng khả năng cạnh tranh và góp phần
phát triển bền vững (Tuyến & Hưởng, 2022).
Ngoài ra có một vài nghiên cứu chỉ ra ảnh hưởng của chất
lượng báo cáo tài chính và thông tin phát triển bền vững. Kết quả nghiên cứu
của Özer và cộng sự (2024) cho thấy những
công ty đạt điểm ESG cao có xu hướng ít quản trị lợi nhuận hơn và trình bày số
liệu minh bạch hơn, qua đó cải thiện chất lượng của thông tin tài chính. Việc
thuyết minh thông tin ESG kết hợp với thông tin có chất lượng cao trên báo cáo
tài chính giúp nâng cao hiệu quả đầu tư Choiriah và cộng sự (2024). Tại Mỹ,
Gafni và cộng sự (2024) phân tích các công ty niêm yết và kết luận rằng doanh
nghiệp có xếp hạng ESG cao, tuân thủ tốt quy định ESG thường có chất lượng báo
cáo tài chính, giảm rủi ro tẩy xanh (greenwashing) thông qua thao túng số liệu
kế toán.
Như
vậy, các nghiên cứu trước đây tìm hiểu mức độ liên hệ giữa thông tin trên báo
cáo tài chính và thông tin trên báo cáo phát triển bền vững còn hạn chế, đặc
biệt là chưa có nghiên cứu về mối liên hệ này trên các báo cáo của ngân hàng
thương mại.
3.
Phân tích mối liên hệ giữa báo cáo
tài chính và báo cáo phát triển bền vững tại ngân hàng thương mại
Tại
Việt Nam, hệ thống ngân hàng thương mại được chia làm ba nhóm chính
bao gồm: ngân hàng thương mại do nhà nước sở hữu; ngân hàng thương mại
cổ phần và ngân hàng thương mại 100% vốn nước ngoài. Phần tiếp theo phân
tích mối liên hệ giữa Báo cáo tài chính và Báo cáo phát triển bền vững trên 4
quan điểm: (1) mục tiêu vì môi trường và xã hội của doanh nghiệp thể hiện
trên hai báo cáo, (2) tính trọng yếu của thông tin tài chính và thông
tin phát triển bền vững, (3) ESG là công cụ hỗ trợ quản trị rủi ro
trong doanh nghiệp và (4) thuế là một trong những công cụ thể hiện
trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp đối với 37 ngân hàng thương mại dựa
vào báo cáo phát triển bền vững và báo cáo tài chính năm 2024.
3.1. Mục tiêu vì môi
trường và xã hội của doanh nghiệp
Với khía cạnh này, các thông tin trên Báo cáo tài chính
cần thể hiện các thông tin liên quan đến mục tiêu vì môi trường và xã hội của
doanh nghiệp trong phần thuyết minh, ví dụ các thông tin về chi phí, thuế liên
quan đế môi trường, các thông tin liên quan đến các khoản chi trả cho nhân
viên, bảo hiểm, đào tạo,… Báo cáo ESG
cần thể hiện các thông tin về môi trường, xã hội, nhân viên ảnh hưởng thế nào
đến các chỉ tiêu tài chính, rủi ro, chiến lược của doanh nghiệp.
Trong
hệ thống NHTM tại Việt Nam, 19 trong số 37 NHTM công bố báo cáo phát triển bền
vững. Nhóm NHTM có vốn Nhà nước như Agribank, Vietinbank, BIDV, Vietcombank
công bố nội dung phát triển bền vững trong báo cáo thường niên. Ngân hàng TMCP
Á Châu (ACB) đã lần đầu công bố báo cáo phát triển bền vững độc lập theo tiêu
chuẩn GRI từ năm 2023. Một số ngân hàng TMCP khác như VPBank, Sacombank, HD
Bank, OCB, MB Bank, VIB, VPB, SeaBank cũng tích hợp báo cáo phát triển bền vững
vào báo cáo thường niên. Trong nhóm NHTM 100% vốn nước ngoài, CIMB phát hành
báo cáo phát triển bền vững cho toàn bộ hệ thống ngân hàng thuộc CIMB Group,
không chỉ riêng tại Việt Nam.
Căn
cứ vào GRI Perspective 1 – Business case for environment and society (Global
Reporting Initiative, 2022), bối cảnh báo cáo phát triển bền vững đang thay đổi
nhanh chóng. Doanh nghiệp đầu tư vào môi trường và xã hội, cùng với các bảng
xếp hạng so sánh, giúp nâng cao khả năng ra quyết định cho cổ đông và bên liên
quan. Ngoài giá trị tài chính, các bên liên quan còn quan tâm đến trách nhiệm
xã hội của doanh nghiệp, từ đó hình thành lợi thế cạnh tranh trong tương lai.
Đầu tư vào phát triển bền vững cải thiện hình ảnh doanh nghiệp và tăng doanh
thu, thị phần. GRI cụ thể hóa báo cáo doanh nghiệp với hai nội dung chính: vấn
đề tài chính qua báo cáo tài chính và tác động môi trường, xã hội qua báo cáo
phát triển bền vững. Thông tin định tính và định lượng về tác động của tổ chức
đối với kinh tế, môi trường và xã hội giúp xác định rủi ro, cơ hội tài chính và
tính trọng yếu. Bằng cách thông báo về tác động môi trường và xã hội, doanh
nghiệp chứng minh nỗ lực của mình, tạo uy tín trên thị trường và mở đường cho sự
phát triển trong tương lai.
Trong
19 ngân hàng thương mại công bố báo cáo phát triển bền vững, có 16 ngân hàng
thể hiện mục tiêu về môi trường và xã hội trên báo cáo phát triển bền vững.
Trong nhóm ngân hàng Quốc doanh, có Agribank. Nhóm ngân hàng có trên 50% vốn
Nhà nước, có Vietinbank và Vietcombank. Nhóm ngân hàng cổ phần, có Techcombank,
HD bank, OCB, MB, VIB, SHB, Sacombank, VP, Eximbank, LP bank, ACB, SeA bank,
Maritime bank. Bên cạnh mục tiêu hướng đến môi trường và xã hội, các ngân hàng
như SHB, OCB, Techcombank còn có mục tiêu về quản trị bền vững, dựa theo yếu tố
G – governance trong báo cáo ESG. Đối với báo cáo tài chính, không có ngân hàng
nào thể hiện mục tiêu về môi trường. Tuy nhiên, có 9 ngân hàng thể hiện mục
tiêu về xã hội thông qua việc thuyết minh các thông tin liên quan đến thu nhập,
lợi ích và phúc lợi cho nhân viên. Các ngân hàng này bao gồm Vietinbank, BIDV,
VP bank, Eximbank, Tiên Phong bank, LP bank, ACB, VIB và Maritime bank. Điều
này cho thấy có mối liên hệ về mục tiêu giữa 2 loại báo cáo. Trong đó, không có
mục tiêu môi trường, mục tiêu về xã hội có được thể hiện nhưng quy mô còn hạn
chế.
3.2. ESG là một công cụ hỗ trợ quản trị rủi ro
Với
khía cạnh này Báo cáo tài chính cần thể hiện được tính bền vững trong hoạt động
của doanh nghiệp liên quan đến tài chinh, liên quan đến nhân viên và các hoạt
động liên quan đến môi trường (thuế môi trường…), từ đó xem xét tác động đến
rủi ro tài chính, rủi ro nhân sự, rủi ro môi trường của doanh nghiệp. Báo cáo
ESG cần làm rõ các nội dung về môi trường, xã hội, nhân viên tác động thế nào
đến rủi ro của doanh nghiệp về mặt tài chính, nhân sự, môi trường.
Theo
GRI Perspective 10 – ESG risk: Taking the woke debate seriously (Global
Reporting Initiative, 2022), rủi ro trong kinh doanh là những tình huống tiêu
cực có thể ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức. Áp dụng tiêu chí ESG giúp doanh
nghiệp tăng cường lợi nhuận bằng cách giảm chi phí qua chuyển đổi sang nền kinh
tế carbon thấp. Doanh thu cũng có thể gia tăng nhờ phát triển sản phẩm mới tích
hợp yếu tố bền vững. ESG còn giúp giảm chi phí vay vốn, khi các công cụ nợ có
yếu tố bền vững ngày càng phổ biến. Các nhà đầu tư hiện chú trọng vào tính bền
vững của các công ty. Việc áp dụng ESG nâng cao năng suất lao động, tạo môi
trường làm việc rõ ràng, cải thiện sự gắn kết nhân viên và đảm bảo nhân sự có
đủ trình độ thích ứng với thay đổi nhanh chóng của thị trường.
Trong
hệ thống ngân hàng thương mại tại Việt Nam hiện nay, 13 ngân hàng có báo cáo
thể hiện quan điểm này. Về sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, thông tin về
lợi nhuận trước thuế được công bố trên báo cáo tài chính và báo cáo phát triển
bền vững, phản ánh tình hình hoạt động kinh doanh, là vấn đề chính không chỉ
của ngân hàng mà của mọi doanh nghiệp. Liên quan đến quản trị rủi ro nguồn nhân
lực, các ngân hàng này cũng công bố thông tin trên cả hai báo cáo. Trong báo
cáo tài chính, họ công bố các chỉ tiêu liên quan đến người lao động như thu
nhập bình quân/người/năm và tiền lương bình quân/người/năm. Đồng thời, báo cáo
phát triển bền vững cũng nêu rõ sự biến động số lượng nhân viên và thu nhập của
họ. Một số ngân hàng như SHB công bố thông tin về các chính sách và hoạt động
liên quan đến người lao động và văn hóa doanh nghiệp, trong khi Eximbank công
bố các chính sách liên quan đến người lao động. Như vậy, thông qua các hoạt
động ESG, các ngân hàng đã có thể quản trị rủi ro trong đơn vị mình.
Trong
hệ thống ngân hàng thương mại tại Việt Nam hiện nay, 10 ngân hàng có báo cáo
phát triển bền vững thể hiện quan điểm này về quản trị rủi ro. Trong đó, các
ngân hàng như Agribank, HD bank và VP bank thể hiện thông tin về quy trình đánh
giá rủi ro, tích hợp phát triển bền vững vào quản lý rủi ro tín dụng.
Techcombank có chính sách về quản trị rủi ro về môi trường và xã hội, MB có dự
án quản trị rủi ro ESG bao gồm cả rủi ro khí hậu, Eximbank và Maritime bank xây
dựng khung quản trị rủi ro môi trường – xã hội, LP bank thể hiện các nhân tố và
quản trị rủi ro. Tuy nhiên, mối liên hệ về ESG là công cụ quản trị rủi ro không
được thể hiện trên báo cáo tài chính. Cụ thể, trong thuyết minh báo cáo tài
chính, không có ngân hàng nào thể hiện thông tin về ESG liên quan đến việc
trích lập dự phòng hay các rủi ro của ngân hàng. Như vậy, ESG là công cụ quản
trị rủi ro là mối liên hệ 1 chiều, thông tin chỉ xuất hiện trên 1 loại báo cáo
là báo cáo phát triển bền vững.
3.3. Tính trọng yếu của thông tin tài
chính và thông tin phát triển bền vững
Với
khía cạnh này, Báo cáo tài chính cần thuyết minh các thông tin có tính trọng
yếu liên quan đến môi trường, nhân viên, xã hội trong các báo cáo tài chính.
Báo cáo ESG cần có thông tin tài chính liên quan đến các khoản mục quan trọng
về môi trường, nhân viên và xã hội.
Căn
cứ vào GRI Perspective 3 – The materiality madness (Global Reporting
Initiative, 2022), tính trọng yếu là khái niệm quan trọng trong báo cáo, giúp
lựa chọn thông tin để công bố. Tính trọng yếu được sử dụng để lọc thông tin có
liên quan hoặc quan trọng đối với người sử dụng. Thông tin được coi là trọng
yếu nếu nó ảnh hưởng đến quyết định của các bên liên quan về đơn vị cung cấp
báo cáo. Trong doanh nghiệp, thông tin trọng yếu về mặt tài chính liên quan đến
việc tạo ra giá trị kinh tế phục vụ lợi ích của nhà đầu tư. Ngoài ra, thông tin
trọng yếu về tác động của doanh nghiệp đối với kinh tế, môi trường và con người
cũng quan trọng đối với nhiều bên liên quan như nhà đầu tư, khách hàng, nhà
cung cấp và cộng đồng địa phương. Một số thông tin báo cáo về tính bền vững có
thể không tác động trực tiếp đến giá trị tài chính hiện tại, nhưng có thể ảnh
hưởng trong trung và dài hạn.
Như
vậy mối liên hệ giữa 2 báo cáo sẽ được thể hiện ở việc thông tin trọng yếu về
tài chính được thể hiện trên báo cáo phát triển bền vững, và những thông tin
trọng yếu về môi trường và xã hội được thể hiện trên báo cáo tài chính. Theo
đó, có 12 trên 37 ngân hàng công bố thông tin tài chính trên báo cáo phát triển
bền vững. Phần lớn các ngân hàng như Vietcombank, Agribank, Techcombank, HD
bank, OCB, … đều thể hiện thông tin tài chính về giá trị kinh tế doanh nghiệp
tạo ra. Ngoài ra, một số ngân hàng còn trình bày thông tin về tiền lương và thù
lao của người lao động như LP bank và Martime Bank. Các thông tin tài chính về
môi trường ít được quan tâm trên báo cáo phát triển bền vững. Chỉ có báo cáo
của Vietinbank thể hiện thông tin về chi phí tiết kiệm được thông qua hoạt động
tiết kiệm điện. Đối với báo cáo tài chính, không có mối liên hệ nào được tìm
thấy với báo cáo phát triển bền vững. Cụ thể, không có ngân hàng nào thể hiện
các thông tin trọng yếu về môi trường và xã hội trên báo cáo tài chính. Như vậy,
mối liên hệ về tính trọng yếu chỉ là mối liên hệ 1 chiều với sự xuất hiện của
các thông tin tài chính trên báo cáo phát triển bền vững.
3.4.Thuế là một
công cụ thể hiện trách nhiệm của doanh nghiệp với môi trường, xã hội và con
người
Với khía cạnh này, báo cáo tài chính cần thuyết minh các
thông tin về thuế liên quan đến môi trường, nhân viên và doanh nghiệp. Báo cáo
ESG cần có thông tin về thuế liên quan đến các nội dung về môi trường, nhân
viên và xã hội.
Căn cứ vào GRI Perspective 5 – We need to talk about tax
(Global Reporting Initiative, 2022), thuế là công cụ quan trọng trong điều tiết
nền kinh tế vĩ mô, giúp giảm bất bình đẳng và phân phối lại thu nhập cho xã
hội. Có hai nhóm thuế: liên quan trực tiếp và không trực tiếp đến môi trường và
xã hội. Tại Việt Nam, doanh nghiệp phải nộp một số loại thuế liên quan trực
tiếp đến môi trường. Thứ nhất, thuế carbon áp dụng cho sản xuất khí thải nhà
kính hoặc nhiên liệu thải ra khí này khi đốt cháy, thường là nhiên liệu hóa
thạch. Cơ sở áp thuế carbon dựa trên chi phí bổ sung cho mỗi tấn CO2 phát thải.
Thứ hai, thuế bảo vệ môi trường đánh vào sản phẩm gây tác động xấu như xăng,
dầu diesel, dầu hỏa, dầu mazut. Thứ ba, thuế tài nguyên áp dụng cho tổ chức, cá
nhân khai thác tài nguyên thiên nhiên thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước quản
lý. Liên quan đến xã hội, các khoản thuế thu nhập cá nhân (TNCN) và các khoản
trích theo lương thể hiện trách nhiệm xã hội đối với nhân viên.Trong hệ thống
ngân hàng thương mại tại Việt Nam, có 7 trên tổng số 37 ngân hàng thể hiện được
quan điểm này trên cả hai báo cáo. Đối với báo cáo tài chính, tất cả các ngân
hàng đều công bố chỉ tiêu thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng và
các loại thuế khác trong thuyết minh. Tuy nhiên, các loại thuế liên quan đến
môi trường thường không xuất hiện trong báo cáo tài chính của các ngân hàng.
Nguyên nhân có thể do các ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính hoạt động
với mục tiêu tạo lợi nhuận từ giao dịch tiền tệ nên thường không phải chịu các
khoản thuế này. Trong báo cáo phát triển bền vững, có sự khác nhau giữa các
ngân hàng khi cung cấp thông tin liên quan đến khoản thuế phải nộp trong năm và
chỉ có 7 ngân hàng thể hiện thông tin về thuế. Cụ thể, trong nhóm ngân hàng có
trên 50% vốn góp của Nhà nước, các ngân hàng Agribank, Vietinbank, Vietcombank
thực hiện công bố. Trong nhóm ngân hàng cổ phần, có ngân hàng (ACB, HD Bank,
VIB, Sacombank, VP bank) công bố thông tin này. Các ngân hàng thương mại còn
lại không đề cập đến chỉ tiêu này trong báo cáo phát triển bền vững của mình.
4. Minh họa thực
trạng áp dụng tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu (ACB)
Hầu hết các ngân hàng đều tích hợp việc lập báo cáo phát
triển vào báo cáo thường niên của ngân hàng. Tuy nhiên vào năm 2023, Việt Nam
đã có ngân hàng thương mại đầu tiên là ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) công bố báo
cáo riêng về phát triển bền vững. Báo cáo này được lập dựa trên tiêu chuẩn của
Tổ chức sáng kiến báo cáo toàn cầu (GRI - Global Reporting Initiative), kết hợp
tham chiếu đến 17 mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc (SDGs -
Sustainable Development Goals). Thông qua phân tích báo cáo phát triển bền vững
và báo cáo tài chính năm 2024 của ACB, đồng thời tham chiếu với mối liên hệ
giữa hai báo cáo đã được phân tích ở trên để thấy được thực trạng áp dụng tại
ngân hàng này.
4.1. Một doanh
nghiệp vì môi trường và xã hội
Báo cáo phát triển bền vững của ACB thể hiện 1 sự phân
tích toàn diện về cơ hội và thách thức trước khi đưa ra các mục tiêu về môi
trường và xã hội. Việc tuân thủ ESG được ngân hàng đưa ra thành các định hướng
cụ thể về tài chính bền vững, quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong cấp tín
dụng và tích hợp các mục tiêu phát triển bền vững vào hoạt động vận hành và
quản lý.
Đối với mục tiêu môi trường, ACB đặt ra 5 vấn đề trọng
yếu liên quan đến “(1) Tài chính xanh và tài chính bền vững, (2) quản lý rủi ro
liên quan đến môi trường và khí hậu, (3) Giảm phát thải khí nhà kính thông qua
sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên, (4) Thực hành tốt về môi trường theo thông
lệ tiên tiến, và (5) Tuân thủ các quy định pháp luật về môi trường”. Trong số
các mục tiêu này, chỉ có mục tiêu về tài chính được doanh nghiệp quy ra giá trị
kinh tế, thể hiện sự liên quan đến báo cáo tài chính. Cụ thể dư nợ tín dụng
xanh của ACB theo khung tài chính là 334,7 tỷ đồng vào năm 2024.
Đối với mục tiêu về xã hội, ACB hướng đến 7 mục tiêu “(1)
Khách hàng là trọng tâm của phát triển bền vững, (2) Tài chính toàn diện, (3)
Bình đẳng, đa dạng và hòa nhập, (4) Phát triển nguồn nhân lực và đảm bảo phúc
lợi của người lao động, (5) Phát triển cộng đồng và trách nhiệm xã hội, (6) Mua
sắm có trách nhiệm, và (7) Chuyển đổi số và giải pháp số hóa”. Ngoài ra, ACB đã
tham chiếu nội dung và hình thức tương tác với các bên liên quan, cụ thể hóa
hơn về trách nhiệm đối với xã hội. Thông tin tài chính được thể hiện nhiều hơn
đối với mục tiêu xã hội. Dư nợ tín dụng xã hội là 3.027,9 tỷ đồng, mức thu nhập
trung bình của người lao động được báo cáo ở mức 457 triệu đồng/ năm, và số
tiền ACB đã tài trợ cho các chương trình vì cộng đồng là 107 tỷ đồng.
Trong báo cáo tài chính của ngân hàng, thông tin về trợ
cấp thất nghiệp theo Bộ luật Lao động Việt Nam cũng được trình bày trong thuyết
minh, nhưng không có thông tin nào về môi trường được thuyết minh. Như vậy báo
cáo của ACB có mối liên hệ giữa phát triển bền vững và tài chính, và thể hiện
rõ hơn ở mục tiêu xã hội, mục tiêu về môi trường chỉ được thể hiện 1 chiều trên
báo cáo phát triển bền vững.
4.2. ESG là công cụ
hỗ trợ quản trị rủi ro trong doanh nghiệp
ESG là công cụ hỗ trợ quản trị rủi ro được thể hiện ở mục
tiêu quản lý rủi ro môi trường và xã hôi trong hoạt động cấp tín dụng. ACB tuân
thủ yêu cầu của nhà nước trong hoạt động cấp tín dụng, các dự án gây hại hay có
tác động xấu đên môi trường sẽ bị loại ra khỏi danh mục cấp tín dụng. Ngoài ra,
ESG cũng được lồng ghép trong các hoạt động vận hành và quản lý với các bên
liên quan. Ví dụ, với khách hàng, áp dụng ESG được cụ thể hóa thành hình thức
tương tác là ứng dụng số hóa và AI để bảo vệ người dùng khỏi các rủi ro tiềm ẩn
trong quá trình giao dịch. Với cộng đồng địa phương, ACB cũng có hoạt động đánh
giá rủi ro, thách thức với môi trường và xã hội của địa phương. Theo thang xếp
hạng tín dụng Moody’s, ACB có mức điểm tín dụng liên quan đến ESG cao nhất tại
Việt Nam, cho thấy năng lực quản lý rủi ro ESG mạnh mẽ. Những thông về quản trị
rủi ro đều được thể hiện trên báo cáo phát triển bền vững của ACB.
Tuy nhiên, cũng giống như các ngân hàng thương mại khác,
báo cáo tài chính của ACB không thể hiện thông tin về ESG. Mối liên hệ về ESG
là công cụ hỗ trợ quản trị rủi ro trong doanh nghiệp chỉ được thể hiện trên báo
cáo phát triển bền vững.
4.3. Tính trọng yếu
của thông tin tài chính và thông tin phát triển bền vững
Đối với báo cáo phát triển bền vững, ACB có thực hiện
công bố các thông tin trọng yếu là các thông tin được thể hiện bằng con số về
tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Cụ thể các thông
tin được trình bày bao gồm: “tổng tài sản 864.006 tỷ đồng, vốn chủ sở hữu
83.462 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế hợp nhất 21.006 tỷ đồng, lợi nhuận sau
thuế 16.790 tỷ đồng, tổng doanh thu hợp nhất 33.515 tỷ đồng, nộp ngân sách nhà
nước 5.507 tỷ đồng, và chi phí cho nhân viên 6.468 tỷ đồng”. Các thông tin tài
chính này thể hiện trách nhiệm đối với xã hội và các bên liên quan. Ở khía cạnh
môi trường, ACB mặc dù có thể hiện đầy đủ các thông tin liên quan đến cắt giảm
và quản lý chất thải, tiết kiệm nhiên liệu tiêu thụ,... nhưng không có mối liên
hệ nào về mặt tài chính được trình bày.
Với báo cáo tài chính, ACB không thể hiện các thông tin
trọng yếu về phát triển bền vững. Vì vậy, mối liên hệ về tính trọng yếu giữa 2
báo cáo cũng là mối liên hệ một chiều, chỉ có thông tin trọng yếu về tài chính
xuất hiện trên báo cáo phát triển bền vững.
4.4. Thuế là một
trong những công cụ để thể hiện trách nhiệm của doanh nghiệp đối với môi
trường, xã hội và con người
Thông tin về thuế được thể hiện trên cả 2 báo cáo phát
triển bền vững và báo cáo tài chính của ACB, thể hiện mối liên hệ chặt chẽ
trong việc trình bày thông tin thuế là công cụ thể hiện trách nhiệm của doanh
nghiệp. Trên báo cáo phát triển bền vững, ACB thể hiện tiền nộp ngân sách nhà
nước là 5.507 tỷ đồng. Thông tin về thuế thu nhập doanh nghiệp và tình hình
thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước được trình bày chi tiết hơn trên báo
cáo tài chính. Tuy nhiên, trên cả 2 báo cáo đều không thể hiện các loại thuế
liên quan đến môi trường. Điều này có thể do ngân hàng không phải là doanh
nghiệp có hoạt động sản xuất gây tác động trực tiếp đến môi trường. Hoạt động
gián tiếp của ngân hàng ảnh hưởng đến môi trường, thông qua đầu tư và cấp tín
dụng cho các dự án có rủi ro môi trường cao đã được trình bày tại mục tiêu về
môi trường và xã hội.
5. Kết luận
Bằng
việc thống kê, phân tích thông tin được cung cấp trên báo cáo phát triển bền
vững và báo cáo tài chính của hệ thống ngân hàng thương mại tại Việt Nam, bài
viết đưa ra kết luận về thực trạng mối liên hệ giữa hai loại báo cáo này. Trong hệ thống ngân hàng thương mại tại
Việt Nam hiện nay, chưa có ngân hàng nào
có cả 2 báo cáo thể hiện mối liên hệ giữa báo cáo tài chính và báo cáo
phát triển bền vững trên cả bốn quan điểm: doanh nghiệp vì môi trường và xã
hội, tính trọng yếu của thông tin tài chính và thông tin phát triển bền vững,
ESG là công cụ hỗ trợ quản trị rủi ro trong doanh nghiệp, thuế là một trong
những công cụ thể hiện trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp với môi trường. Hầu
hết các ngân hàng đều thể hiện thông tin tài chính trên báo cáo phát triển bền
vững ở cả 4 khía cạnh, nhưng nội dung về phát triển bền vững còn bị hạn chế
trình bày trên báo cáo tài chính.
Phân
tích cho thấy,
mối liên hệ giữa báo cáo tài chính và báo cáo phát triển bền vững chưa chặt
chẽ. Mục tiêu về môi trường và phát triển bền vững được thể hiện trên báo cáo
phát triển bền vững của 16 ngân hàng, nhưng chỉ có 9 ngân hàng thể hiện thông
tin này trên báo cáo tài chính của họ thông qua thông tin về tiền lương và lợi
ích cho nhân viên. Mục tiêu về môi trường bị bỏ qua trong báo cáo này.
Đối
với quan điểm ESG là công cụ hỗ trợ quản trị rủi ro doanh nghiệp, một
doanh nghiệp khi thực hiện tốt trách nhiệm liên quan đến Quản trị –
Xã hội – Môi trường sẽ góp phần giảm thiểu rủi ro liên quan đến sự
tồn tại và phát triển của ngân hàng. Có 10 ngân hàng thể hiện thông tin
về rủi ro trên báo cáo phát triển bền vững. Đặc biệt thông tin về ESG không
được trình bày trên báo cáo tài chính của bất kì ngân hàng nào. Điều này cho
thấy có sự tách biệt về thông tin trình bày trên 2 loại báo cáo, và yếu tố về
ESG chưa được định lượng hóa về mặt tài chính để có thể trình bày.
Về
quan điểm tính trọng yếu của thông tin phát triển bền vững và thông
tin tài chính, đối với thông tin tài chính, hầu hết các ngân hàng
đều thể hiện được các thông tin cơ bản như doanh thu, lợi nhuận, tổng tài
sản trên báo cáo phát triển bền vững. Tương tự như thông tin về ESG, các thông
tin trọng yếu về phát triển bền vững không được thuyết minh trên báo cáo tài
chính của bất kì ngân hàng nào.
Trái
ngược với các quan điểm trên, quan điểm thuế là một trong những công cụ thể
hiện trách nhiệm của doanh nghiệp đối với môi trường, xã hội và con
người, được tất cả các ngân hàng thể hiện trong báo cáo tài chính. Có 8
ngân hàng thể hiện thông tin về thuế trên báo cáo phát triển bền vững. Điều này
cho thấy,
Thuế thể hiện được ESG dưới dạng tài
chính và là cầu nối để có thể tích hợp các
yếu tố về phát triển bền vững vào báo cáo tài chính của ngân hàng.
Tài liệu tham khảo
Bộ
Tài chính. (2014). Thông tư 200/2014/TT-BTC.
Bộ
Tài chính. (2015). Thông tư 155/2015/TT-BTC.
Chen,
Z., & Xie, G. (2022). ESG disclosure and financial performance: Moderating
role of ESG investors. International Review of Financial Analysis, 83, 102291.
Choiriah,
S., Tarmidi, D., & Ahmad, Z. (2024). ESG disclosure, financial reporting
quality and investment efficiency. International Journal of Social Science and
Business, 8(3), 455–465.
Cicchiello,
A. F., Marrazza, F., & Perdichizzi, S. (2023). Non‐financial disclosure
regulation and environmental, social, and governance (ESG) performance: The
case of EU and US firms. Corporate Social Responsibility and Environmental
Management, 30(3), 1121-1128.
Deloitte.
(2024, April 9). IASB issues new standard on presentation and disclosures in
financial statements.
Gafni, D., Palas, R., Baum, I., & Solomon, D. (2024).
ESG regulation and financial
reporting quality: Friends or foes? Finance Research Letters, 61, 105017.
Global
Reporting Initiative. (2022). Business case for environment and society.
Global
Reporting Initiative. (2022). Taking the woke debate seriously.
Global
Reporting Initiative. (2022). The materiality madness.
Global
Reporting Initiative. (2022). We need to talk about tax.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. (2019). Thông tư số
48/2019/TT-NHNN.
Phạm, Q. T. (2022). Các nhân tố tác động đến chất lượng
thông tin báo cáo tài chính trong các doanh nghiệp tại Việt Nam: Góc nhìn từ lý
thuyết quyền biến (Contingency Theory). Phát triển Khoa học và công nghệ – Kinh
tế - Luật và quản lý, 6(2), 2486 - 2499.
Özer, G., Aktaş, N., & Çam, İ. (2024). Corporate environmental, social, and
governance activities and financial reporting quality: An international
investigation. Borsa Istanbul Review, 24, 549–560.
PwC
Việt Nam. (2022). Báo cáo về mức độ sẵn sàng thực hành ESG tại Việt Nam năm 2022.
Quốc hội. (2015). Luật Kế toán số 88/2015/QH13, Điều 3 khoản
1.
Thúy, T. T. K. (2019). Các nhân tố ảnh hưởng đến chất
lượng thông tin trên báo cáo tài chính của các ngân hàng thương mại tại Việt
Nam (Master's thesis, Trường Đại học Kinh tế TP. HCM).
Tuyến, T. Q., & Hưởng, V. V. (2022). Vai trò của
trách nhiệm xã họi đến hiệu quả tài chính doanh nghiệp tại Việt Nam: Bằng chứng
từ hồi quy phân vị mảng. Kinh tế và phát triển, 298, 16-24.
Wang, S., Wang, H., Wang, J., & Yang, F. (2020). Does environmental information
disclosure contribute to improve firm financial performance? An examination of
the underlying mechanism. Science of the Total Environment, 714, 136855.
Wang,
Y., & He, P. (2024). Enterprise digital transformation, financial
information disclosure and innovation efficiency. Finance Research Letters, 59,
104707.