Chính sách thuế đối với hoạt động khoa học và công nghệ - Thực trạng và giải pháp
Theo các chuyên gia, nhà khoa học, bên cạnh việc tăng chi đầu tư cho khoa học và công nghệ (KHCN), tăng cường các chính sách khuyến khích hoạt động khoa học, đổi mới sáng tạo, Nhà nước cần nghiên cứu, cải cách chính sách thuế đối với lĩnh vực KHCN, đảm bảo tính đặc thù của lĩnh vực này.
Ngày 8/12/2023, Hiệp hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam (VAA) tổ chức Hội thảo “Chính sách thuế đối với hoạt động khoa học và công nghệ - Thực trạng và giải pháp”,
Tại hội thảo, các chuyên gia, nhà khoa học đã tập trung làm rõ những bất cập trong thực hiện nhiệm vụ KHCN, đặc biệt là các bất cập liên quan đến chế độ, chính sách, tài chính cho KHCN.

Phát biểu khai mạc Hội thảo, PGS,TS. Đặng Văn Thanh - Chủ tịch Hiệp hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam (VAA) cho biết, hiện nay năng suất lao động của Việt Nam còn thấp so với khu vực và thế giới, hiệu quả kinh tế chưa cao, đầu tư thất thoát nhiều, chỉ số ICOR rất cao. Nguyên nhân của tình trạng này phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó, một trong những yếu tố quan trọng là khoa học kỹ thuật của nước ta chưa tương xứng với tiềm năng của các nhà khoa học, hiệu quả của KHCN tác động vào nền kinh tế còn rất thấp.
Vì vậy, Đảng, Nhà nước đã có chủ trương phải biến KHCN trở thành động lực; Nhà nước khuyến khích, vận động thanh niên vừa khởi nghiệp, vừa sáng tạo để nâng cao năng suất lao động.
“Vấn đề đặt ra là khoa học phải là động lực đồng thời cũng là chủ động để Việt Nam phát triển bền vững, đặc biệt trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 bùng nổ mạnh mẽ” - ông Thanh nhấn mạnh.
Chia sẻ tại Hội thảo, các chuyên gia đánh giá, nhằm thúc đẩy hoạt động KHCN, những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành hàng loạt cơ chế, chính sách pháp luật liên quan đến hoạt động KHCN qua đó đã tạo động lực quan trọng cho lĩnh vực này phát triển.
Trong đó, Nhà nước luôn quan tâm đến việc hoàn thiện, đổi mới cơ chế, chính sách tài chính cho phát triển KHCN như: Đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư cho KHCN, đổi mới chính sách đầu tư và cơ chế phân bổ ngân sách nhà nước (NSNN)…
Tuy nhiên, các đại biểu cũng cho rằng, cơ chế chính sách về tài chính cho hoạt động KHCN còn không ít bất cập, vướng mắc trong thực hiện.
Theo GS,TS. Đoàn Xuân Tiên - Phó Chủ tịch VAA, nguyên Phó Tổng Kiểm toán nhà nước, kết quả kiểm toán của Kiểm toán nhà nước cho thấy, giai đoạn 2020-2022 kinh phí đầu tư cho KHCN ở nước ta chỉ đạt 1,01%/tổng chi NSNN và đạt 0,2%/GDP. Trong khi đó, mục tiêu chúng ta đặt ra là bảo đảm chi cho KHCN và đổi mới sáng tạo từ 2% trở lên trong tổng chi NSNN hằng năm và tăng dần theo yêu cầu phát triển của sự nghiệp KHCN. Mức chi cho KHCN của Việt Nam thấp hơn rất nhiều so với mặt bằng chung của thế giới (theo đánh giá của UNESCO mức chi cho KHCN trên toàn thế giới bình quân là 1,9 %/GDP, ở Đông Nam Á bình quân là 1,1 %)
GS. Đoàn Xuân Tiên cho rằng, một trong những yếu tố thúc đẩy KHCN chính là khuyến khích và ưu đãi trong lĩnh vực nghiên cứu KHCN, đầu tư cho KHCN, phát triển công nghệ. Tuy nhiên, với các quy định hiện nay còn vướng về thủ tục, về cơ chế nên không khuyến khích được các nhà khoa học.
Đồng quan điểm, PGS,TS. Đặng Văn Thanh phân tích, các đề tài, nhiệm vụ khoa học phải qua rất nhiều khâu, từ lựa chọn, thẩm định cho đến phê duyệt đề tài; cơ chế tài chính chi theo dự toán, các nhà khoa học phải thực hiện nhiều thủ tục thanh toán…
“Với quy trình xét duyệt như hiện nay, dù có giải ngân ngay thì thời điểm giao kinh phí cũng cách thời điểm đề xuất nhiệm vụ khá dài. Chưa kể, ngành KHCN còn phải áp dụng thêm quy trình thẩm định lại một lần nữa đề tài đã được phê duyệt khi tiến hành giải ngân, khiến việc cấp kinh phí nghiên cứu đã chậm càng thêm chậm” - ông Đặng Văn Thanh nêu rõ.
Bên cạnh đó, do kinh phí cho hoạt động KHCN phân bổ đều cho các tỉnh, thành phố và các Bộ, ngành dựa trên số kinh phí giao năm trước mà không dựa vào những căn cứ, tiêu chí cụ thể, rõ ràng. Điều này dẫn đến tình trạng, nhiều địa phương, tiềm lực KHCN yếu, đội ngũ cán bộ khoa học trình độ cao thiếu và yếu nhưng vẫn được giao kinh phí khá lớn dẫn đến sử dụng không hết hoặc đầu tư cho các hạng mục công trình khác của địa phương.
Trong khi đó, các Bộ, ngành có tiềm lực KHCN mạnh, đội ngũ cán bộ khoa học trình độ cao thì không được bố trí kinh phí phù hợp với nhu cầu nghiên cứu. Tình trạng trên dẫn đến hệ lụy là lãng phí nguồn kinh phí, hiệu quả hoạt động KHCN thấp, không tương thích với nguồn kinh phí đầu tư.
Chưa kể, cơ chế giám sát sử dụng kinh phí đối với các nhiệm vụ KHCN rất lạc hậu, chậm được đổi mới. Các thủ tục thanh, quyết toán đề tài, nhiệm vụ KHCN rườm rà, mang nặng tính hành chính, buộc nhà khoa học phải đối phó, làm nản lòng nhiều nhà khoa học chân chính.
Cần tiếp tục hoàn thiện chính sách thuế và quản lý thuế
Từ những bất cập, hạn chế được chỉ ra, các ý kiến tại Hội thảo đề nghị Nhà nước cần đa dạng hóa nguồn lực đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư từ NSNN cho hoạt động KHCN. Trong đó, tiếp tục đảm bảo bố trí đủ nguồn lực từ NSNN; khuyến khích thúc đẩy xã hội hóa hoạt động đầu tư cho KHCN nhằm thu hút các thành phần xã hội tham gia đầu tư cho KHCN.
Đặc biệt, nhiều ý kiến đề nghị cần hoàn thiện chính sách ưu đãi thuế phù hợp nhằm thúc đẩy mô hình hợp tác công tư giữa nhà nước và doanh nghiệp trong phát triển KHCN; thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp KHCN.
Theo ông Nguyễn Văn Phụng – Chuyên gia cao cấp về thuế và quản trị doanh nghiệp (Nguyên Cục trưởng Cục thuế, Nguyên Vụ trưởng Vụ Quản lý thuế Doanh nghiệp lớn (Tổng cục thuế), Nguyên Phó vụ trưởng Vụ Chính sách thuế - Bộ Tài chính: “ Khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, giữ vai trò then chốt trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là nền tảng và động lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển nhanh, bền vững đất nước”.
Ông Phụng cho biết, đã có rất nhiều quy định về ưu đãi thuế mà đối tượng thụ hưởng là các tổ chức, cá nhân có hoạt động KH&CN, trong đó các cơ sở sẽ được ưu đãi nhiều hơn, cao hơn là các cơ sở nghiên cứu khoa học, ươm tạo công nghệ, triển khai thực nghiệm, doanh nghiệp CNC, doanh nghiệp ứng dụng CNC. Tuy nhiên, trong thực tế, những quy định về thuế và ưu đãi thuế trong lĩnh vực KH&CN đang phát sinh những vấn đề: Sai phạm về hóa đơn, chứng từ tại đơn vị cơ sở KHCN, tại doanh nghiệp đối với các hạng mục chi tiêu cho hoạt động KHCN được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế và số thuế TNDN được miễn, giảm; Vướng mắc bất cập trong việc trích lập và sử dụng Quỹ KH&CN của doanh nghiệp đối với hầu hết các loại hình doanh nghiệp; Miễn thuế hay lợi dụng chính sách.
Ông Phụng mong muốn các thông tin về quy định pháp luật cũng như thực tế đang xảy ra được đến với độc giả. Từ thực tiễn quản lý trước đây, cùng với các nội dung được trao đổi tại hội thảo này, hy vọng Hội thảo sẽ có những đóng với các cơ quan quản lý nhà nước để có được những quy định tốt hơn trong tương lai.
Theo TS. Đỗ Thị Phương, Phó Chủ nhiệm khoa Kế toán, Đại học Kinh doanh và Công nghệ: “Hoạt động khoa học công nghệ là hoạt động rất cần thiết và quan trọng, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế của Việt Nam đang trong quá trình phát triển. Hiện nay, cách mạng 4.0 phát triển như vũ bão ảnh hưởng toàn diện đến hệ thống kế toán và các chính sách thuế của Nhà nước.
Theo bà Phương, hiện tại và tương lai đang và sẽ sử dụng trí tuệ nhân tạo, Big Datta, Blockchain… và phát sinh và cần phải ghi nhận các chi phí hợp lý để xác định thu nhập chịu thuế. Vậy Nhà nước nên chăng có các chính sách ưu đãi xác định chi phí để tính thu nhập chịu thuế nhằm giúp doanh nghiệp thu hồi vốn nhanh trong việc sử dụng các tài sản trên (trí tuệ nhân tạo, Big Data, Blockchain…) và các tài sản công nghệ cao. Bên cạnh đó, nhà nước nghiên cứu mức thuế suất thuế thu nhập phù hợp đối với hoạt động khoa học công nghệ, có thể áp dụng mức thuế suất thuế TNDN 10% đối với lĩnh vực kinh tế trọng điểm, tuỳ thuộc mức độ trọng điểm kinh tế để xác định mức thuế suất cho phù hợp. Tôi tin rằng với chính sách thuế ưu đãi phù hợp sẽ góp phần to lớn vào sự thúc đẩy phát triển hoạt động khoa học công nghệ nói riêng và nền công nghiệp nước nhà nói chung”.
Theo bà Hà Thị Tường Vy - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Tư vấn khoa học kế toán - VAA, hiện nay, doanh nghiệp KHCN được hưởng ưu đãi miễn, giảm thuế Thu nhập doanh nghiệp theo quy định tại Khoản 1 Điều 12 Nghị định số 13/2019/NĐ-CP. Theo đó, doanh nghiệp được miễn thuế 04 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 09 năm tiếp theo. Bà Vy cho rằng, với đặc thù nghiên cứu KHCN từ khi bắt đầu nghiên cứu cho đến khi có sản phẩm thương phẩm đòi hỏi thời gian rất dài, vì vậy cần kéo dài thời gian miễn, giảm thuế tối thiểu là 15 năm để khuyến khích các doanh nghiệp KHCN; đồng thời áp dụng mức thuế suất 10% đối với doanh nghiệp KHCN.
Bên cạnh đó, bà Vy kiến nghị cần có sự phân loại đối với sản phẩm KHCN (KHCN ứng dụng, KHCN cao…). Trong đó, đối với KHCN cần có chính sách thuế, chính sách ưu đãi đặc biệt.
Những bất cập thường xảy ra như: Sai phạm về hóa đơn, chứng từ tại đơn vị cơ sở KHCN, tại doanh nghiệp đối với các hạng mục chi tiêu cho hoạt động KHCN được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế và số thuế TNDN được miễn, giảm. , Vướng mắc bất cập trong việc trích lập và sử dụng Quỹ KH&CN của doanh nghiệp đối với hầu hết các loại hình doanh nghiệp .
Về vấn đề này ý kiến của bà Phạm Thanh Nga, CPA Việt Nam như sau: “Về chuyển đổi số nên có các chính sách ưu đãi về thuế để doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi số: Thuế TNDN, thuế thu nhập cá nhân; Trong vòng 5 năm tới, trí tuệ nhân tạo sẽ tác động lớn đến nền kinh tế, vì vậy chính phủ nên có những ưu đãi về Thuế TNDN, VAT cho hoạt động nghiên cứu, chuyển giao trí tuệ nhân tạo (AI) vào hoạt động sản xuất, dịch vụ.”
Quan tâm đến công tác quản lý thuế, GS,TS. Đoàn Xuân Tiên đề xuất, cần tiếp tục nghiên cứu các chính sách trong các luật thuế, trong đó vấn đề về thuế nhập khẩu các trang thiết bị phục vụ cho nghiên cứu KHCN, triển khai công nghệ cao. Chính sách này hiện nay đã có quy định nhưng chưa cụ thể, chưa có danh mục chi tiết.
“Trong thực tiễn có trường hợp người ta nói cái máy này được nhập về để nghiên cứu nên được miễn thuế hoặc giảm thuế nhập khẩu; nhưng thực tế họ có đưa vào nghiên cứu không?” - GS,TS. Đoàn Xuân Tiên dẫn ví dụ và đề nghị cần chặt chẽ trong vấn đề quản lý thuế, thu thuế, nhất là việc xác định đúng mục đích nhập khẩu máy móc, thiết bị phục vụ nghiên cứu khoa học.
Tại Hội thảo, PGS,TS. Đặng Văn Thanh cho biết, các ý kiến tại Hội thảo sẽ được VAA tổng hợp đầy đủ và có báo cáo gửi Quốc hội, Bộ Tài chính xem xét, tiếp thu trong quá trình hoàn thiện cơ chế, chính sách cho KHCN.

