• Thứ Ba, ngày 07 tháng 10 năm 2025, 09:07:22
  • Thông tin tòa soạn
  • Hotline: 098 169 6069
  • Tin hiệp hội
  • Tin trong nước
  • Nghiên cứu trao đổi
  • Diễn đàn kế toán
  • Nghiệp vụ
  • Tin Quốc tế
  • Chính sách mới
  • Tạp Chí
  • Nhận, phản biện bài trực tuyến
  • Tin hiệp hội
  • Tin trong nước
    • Tin thời sự
    • Tin hiệp hội
  • Nghiên cứu trao đổi
    • Tạp Chí Số 1+2 / Volume 1+2
    • Tạp Chí Số 3 / Volume 3
    • Tạp Chí Số 4 / Volume 4
    • Tạp Chí Số 5 / Volume 5
    • Tạp Chí Số 6 / Volume 6
    • Tạp Chí Số 7 / Volume 7
    • Tạp Chí Số 8 / Volume 8
    • Tạp Chí Số 9 / Volume 9
    • Tạp Chí Số 10 / Volume 10
    • Tạp Chí Số 11 / Volume 11
    • Tạp Chí Số 12 / Volume 12
  • Diễn đàn kế toán
    • Thông tin doanh nghiệp
    • Kế toán - Kiểm toán với Doanh nghiệp
    • Tài chính - Thuế với Doanh nghiệp
  • Nghiệp vụ
  • Tin Quốc tế
  • Chính sách mới
    • Thuế
    • Tài chính
    • Ngân hàng
    • Chứng khoán
    • Bất động sản
    • Kế toán
    • Kiểm toán
  • Tạp Chí
    • Tạp chí 2024
    • Tạp chí 2023
    • Tạp chí 2022
    • Quản lý tạp chí
    • Quy định trích dẫn và chống đạo văn
    • Hội đồng biên tập
    • Quá trình hình thành và phát triển tạp chí
    • Cơ cấu tổ chức
    • Ban biên tập
    • Quy định bài viết
    • Quy trình phản biện
    • Thể lệ đăng bài
  • Sự kiện AFA 24, 24TH AFA CONFERENCE
    • Tin tức
    • Thảo luận chuyên sâu
    • Tài chính xanh và Doanh nghiệp

Tin hiệp hội

Tin trong nước

  • Tin thời sự
  • Tin hiệp hội

Nghiên cứu trao đổi

  • Tạp Chí Số 1+2 / Volume 1+2
  • Tạp Chí Số 3 / Volume 3
  • Tạp Chí Số 4 / Volume 4
  • Tạp Chí Số 5 / Volume 5
  • Tạp Chí Số 6 / Volume 6
  • Tạp Chí Số 7 / Volume 7
  • Tạp Chí Số 8 / Volume 8
  • Tạp Chí Số 9 / Volume 9
  • Tạp Chí Số 10 / Volume 10
  • Tạp Chí Số 11 / Volume 11
  • Tạp Chí Số 12 / Volume 12

Diễn đàn kế toán

  • Thông tin doanh nghiệp
  • Kế toán - Kiểm toán với Doanh nghiệp
  • Tài chính - Thuế với Doanh nghiệp

Nghiệp vụ

Tin Quốc tế

Chính sách mới

  • Thuế
  • Tài chính
  • Ngân hàng
  • Chứng khoán
  • Bất động sản
  • Kế toán
  • Kiểm toán

Tạp Chí

  • Tạp chí 2024
  • Tạp chí 2023
  • Tạp chí 2022
  • Quản lý tạp chí
  • Quy định trích dẫn và chống đạo văn
  • Hội đồng biên tập
  • Quá trình hình thành và phát triển tạp chí
  • Cơ cấu tổ chức
  • Ban biên tập
  • Quy định bài viết
  • Quy trình phản biện
  • Thể lệ đăng bài

Sự kiện AFA 24, 24TH AFA CONFERENCE

  • Tin tức
  • Thảo luận chuyên sâu
  • Tài chính xanh và Doanh nghiệp
Hotline: 098 169 6069
  • Tin hiệp hội
  • Tin trong nước
  • Nghiên cứu trao đổi
  • Diễn đàn kế toán
  • Nghiệp vụ
  • Tin Quốc tế
  • Chính sách mới
  • Tạp Chí
  • Sự kiện AFA 24, 24TH AFA CONFERENCE
  • Nhận,phản biện bài trực tuyến

Kế toán xanh khái niệm, thực trạng và giải pháp tại các doanh nghiệp Việt Nam

08:32 |  07/10/2025

Hiện nay, tại Việt Nam, với sự phát triển mạnh mẽ của các ngành Công nghiệp, Xây dựng, Dịch vụ,… tạo ra sự tăng trưởng kinh tế nóng và nhanh, nhưng mặt khác, để lại hậu quả tiêu cực lên môi trường sống nên dẫn đến sự phát triển không bền vững cho nền kinh tế - xã hội. Kế toán xanh được coi là công cụ quan trọng để đảm bảo lợi ích hài hòa giữa doanh nghiệp (DN) với các chủ thể có liên quan trong vấn đề bảo vệ môi trường, trên cơ sở phát triển bền vững kinh tế - xã hội. Bài viết này đi phân tích làm rõ bối cảnh ra đời của kế toán xanh, khái niệm kế toán xanh và lợi ích của kế toán xanh. Thực trạng vận dụng kế toán xanh tại các DN, phân tích sự ảnh hưởng của nhận thức, pháp lý, kỹ thuật tính toán và nguồn lực đến việc triển khai kế toán xanh tại các DN. Đồng thời, đưa ra các giải pháp để tăng cường vận dụng kế toán xanh tại các DN Việt Nam hiện nay. Những giải pháp này góp phần thực hiện “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050” nhằm hướng tới nền kinh tế xanh và tăng trưởng nhanh.

1. Đặt vấn đề

Thế giới đã trải qua 4 Cuộc Cách mạng Công nghiệp, mang lại phát triển nhưng kéo theo hệ lụy môi trường, đó là ô nhiễm môi trường, mất cân bằng hệ sinh thái, đặt ra vấn đề không chỉ đơn thuần là bảo vệ môi trường mà làm sao để tạo ra được nhận thức trong cộng đồng về tầm quan trọng của môi trường. Từ đó, một nhánh mới của kế toán xuất hiện nhằm mục đích giúp các DN ghi chép, tổng hợp và lập báo cáo về phần tài sản, nợ phải trả, vốn đầu tư, nguồn thu và các khoản chi cho môi trường xanh. 

Theo Mokhtar & cộng sự, để đáp ứng những áp lực về yêu cầu giảm thiểu tác động đến môi trường trong quá trình sản xuất, kinh doanh, cần phải có những kỹ thuật mới, giúp nhà quản trị kết hợp các thông tin môi trường vào báo cáo kế toán hướng đến phát triển một nền kinh tế bền vững. Năm 2014, Liên Hiệp Quốc đã triển khai chương trình ứng dụng mang tên “Hệ thống kế toán về kinh tế và môi trường”. Năm 2021, Chính phủ Việt Nam đã ký quyết định phê duyệt “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050” nhằm hướng tới nền kinh tế xanh và tăng trưởng nhanh.

Thành phố Hà Nội là một trung tâm kinh tế của Việt Nam, nơi có nền công nghiệp phát triển sớm và mạnh mẽ với tổng số khoảng hơn 370.000 DN, cao gấp 3,8 lần mức bình quân chung cả nước hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất, như thực phẩm, thuốc, đồ gia dụng, đồ gỗ, hóa chất, vật liệu,… gây ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng môi trường sinh thái. Việc triển khai và áp dụng kế toán xanh được xem là một cách và là hướng đi chuyển đổi theo phương thức phát triển, hướng tới nền “kinh tế xanh” góp phần cung cấp thông tin chính xác và minh bạch, đầy đủ và trách nhiệm giúp cải thiện hình ảnh của DN trong mắt cơ quan quản lý, cổ đông, nhà đầu tư và các đối tác kinh doanh. Trước thực trạng đó, trong nghiên cứu này, tác giả mong muốn trình bày bối cảnh ra đời của thuật ngữ kế toán xanh, làm rõ khái niệm kế toán xanh, lợi ích của kế toán xanh, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc vận dụng kế toán tại các DN, từ đó đưa ra các giải pháp để tăng cường vận dụng kế toán tại các DN. Qua đó, góp phần thực hiện “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050” nhằm hướng tới nền kinh tế xanh và tăng trưởng nhanh.

2. Bối cảnh ra đời thuật ngữ kế toán xanh

Khái niệm về kế toán xanh đã được hình thành và phát triển từ năm 1972 ở Mỹ, sau Hội nghị Thượng đỉnh về môi trường tại Stockhom (Thụy Điển). Nhiều tác giả đã nghiên cứu về kế toán xanh, điển hình là tác giả Fleishchmann et Paudke (1977) và Verein Deutscher (1979). Các tác giả này đã tập trung nghiên cứu việc tính toán cụ thể các chi phí và lợi nhuận gắn với các biện pháp chống ô nhiễm môi trường. Đầu năm 1980, nhiều công ty của Mỹ đã đưa vào thực hiện các dự án đầu tư cho công nghệ môi trường. Trong thời điểm này, kế toán xanh đã có sự lan tỏa sang một số nước như: Đức (năm 1980), Nhật Bản (năm 1999),… Trong những năm gần đây, với sự phát triển của nền kinh tế ngày càng hội nhập sâu, cùng với xu thế kinh tế xanh và tăng trưởng xanh, kế toán xanh, kế toán môi trường (KTMT) đang ngày càng được nhiều quốc gia áp dụng hiệu quả, như: Canada, Đan Mạch, Argentina, Singapore, Hàn Quốc, Indonesia,…

Theo Asheim (1997), cần thiết lập một hệ thống kế toán xanh và KTMT để ngăn chặn ô nhiễm hoặc thiệt hại môi trường. Trong khi đó, Sherine & Jacob & Jolli (2012) cho rằng, nhiều quan điểm đã ghi nhận việc tính thu nhập và chi phí từ môi trường có khó khăn đáng kể, bởi nguyên nhân là do các khoản chi phí này thường mang tính chất ẩn. Ngoài ra, việc đo lường các khoản thu - chi trên góc độ số liệu của kế toán, tài chính do nó liên quan đến tương lai và những nhân tố vô hình khác,…

3. Khái niệm kế toán xanh

Năm 2014, Liên hợp quốc đã triển khai chương trình ứng dụng - Hệ thống kế toán về kinh tế và môi trường hay còn gọi là kế toán xanh (Green Accounting). Kế toán xanh, hay còn được gọi là kế toán môi trường, là một khái niệm đang ngày càng trở nên quan trọng trong bối cảnh phát triển bền vững và bảo vệ môi trường. Khác với kế toán truyền thống, chỉ tập trung vào việc đo lường và báo cáo các yếu tố tài chính, kế toán xanh mở rộng phạm vi nghiên cứu để bao gồm cả những yếu tố môi trường. Điều này có nghĩa là, bên cạnh việc xem xét lợi nhuận và hiệu suất kinh doanh, kế toán xanh còn chú trọng đến các chi phí và lợi ích liên quan đến việc bảo vệ môi trường, sử dụng tài nguyên và giảm thiểu tác động tiêu cực từ hoạt động sản xuất và kinh doanh lên hệ sinh thái. Kế toán xanh được coi là một công cụ quan trọng liên quan đến các khía cạnh ảnh hưởng của môi trường tự nhiên đối với nền kinh tế và được xem là hướng chuyển đổi theo phương thức phát triển bền vững, hướng tới phát triển nền kinh tế xanh.

“Kế toán xanh” có thể hiểu là một loại kế toán ghi chép, tổng hợp và lập báo cáo cho một tổ chức, nhằm phản ánh đầy đủ các nội dung về tài sản, nợ phải trả, nguồn thu và chi phí cho môi trường xanh của một quốc gia và một DN. Mục đích của kế toán xanh và KTMT là nhằm giúp các tổ chức và DN quản lý các mục tiêu môi trường, hướng đến phát triển bền vững.

Tóm lại, kế toán xanh ngoài những đặc điểm đặc trưng của kế toán nói chung (nguyên tắc kế toán, phương pháp kế toán, hạch toán kế toán,...), thì còn có những đặc điểm riêng sau: Có các khoản chi phí và lợi ích liên quan đến bảo vệ môi trường; Là cơ sở, yếu tố quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững của DN và phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới.

4. Lợi ích của kế toán xanh

- Giúp các DN nhận thức được giá trị tài chính của các tài sản môi trường, thấy rõ ảnh hưởng của quyết định kinh doanh đến môi trường.

- Giúp các DN đưa ra những chiến lược hiệu quả hơn để giảm thiểu tác động tiêu cực lên môi trường.

- Giúp các DN có thể lập kế hoạch dài hạn với mục tiêu giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường, đồng thời tăng cường hiệu suất tài chính.

- Giúp các DN xây dựng uy tín và hình ảnh tích cực trong mắt khách hàng và nhà đầu tư, đồng thời gia tăng lợi thế cạnh tranh trên thị trường.

- Giúp các DN có những thay đổi trong hành vi và nhận thức về vai trò của mình trong việc bảo vệ môi trường

- Giúp các DN hòa nhập và thích ứng với xu hướng phát triển bền vững

- Tạo ra một cầu nối trong việc đảm bảo hài hòa giữa lợi ích kinh tế và trách nhiệm xã hội, đồng thời hướng đến mục tiêu bảo vệ môi trường cho thế hệ tương lai.

5. Thực trạng

Năm 2021, Chính phủ Việt Nam đã ký quyết định phê duyệt “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050” nhằm hướng tới nền kinh tế xanh và tăng trưởng nhanh. Tuy nhiên, khi triển khai thực tế tại các DN thì gặp nhiều khó khăn, tồn tại, như:

5.1. Về mặt nhận thức

Hiện nay, hầu hết các DN cho rằng các vấn đề môi trường là thứ yếu, không ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh hàng ngày. Nhận thức về kế toán xanh còn hạn chế, nhiều DN cho rằng, việc này không thực sự cần thiết hoặc thậm chí có thể gây tốn kém, đặc biệt là trong các ngành công nghiệp nặng như sản xuất, xây dựng hay khai thác tài nguyên. Mặt khác, không ít DN chỉ tập trung vào việc tìm kiếm lợi nhuận mà chưa quan tâm nhiều đến kế toán xanh, chi phí môi trường thường bị xem nhẹ hoặc không được ghi nhận đầy đủ trong báo cáo tài chính. Điều này dẫn đến việc, DN không có cái nhìn toàn diện về hiệu suất hoạt động của mình, cũng như những tác động tiêu cực mà họ có thể gây ra cho môi trường.

Bênh cạnh đó, sự thiếu thông tin và kiến thức về kế toán xanh cũng là một rào cản lớn. Nhiều DN chưa có đủ nhân lực hoặc tài nguyên để triển khai các hệ thống kế toán xanh, vì họ chưa nhận thấy lợi ích rõ ràng mà nó mang lại. Nhiều DN sau một thời gian sản xuất kinh doanh tạo lợi nhuận, đóng thuế cho Nhà nước, nhưng lại phải đối mặt với vấn đề bảo vệ môi trường, áp lực,….

5.2. Về mặt pháp lý

5.2.1. Các văn bản pháp luật đã ban hành:

Hiện nay, ở Việt Nam, Quốc hội, Chinh phủ, các bộ ngành đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Ví dụ như: Luật Môi trường lần đầu vào năm 1993 và Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi vào năm 2005; Nghị định số 67/2011/NĐ-CP ngày 08/08/2011 quy định về đối tượng chịu thuế, căn cứ tính thuế, khai thuế, tính thuế, nộp thuế và hoàn thuế bảo vệ môi trường; Thông tư số 152/2011/TT-BTC ngày 11/11/2011 hướng dẫn thi hành Nghị định 67/2011/NĐ-CP; Thông tư số 159/2012/TT-BTC ngày 28/09/2012 sửa đổi, bổ sung Thông tư số 152/2011/TT-BTC,…

Mặc dù, Chính phủ Việt Nam đã có những bước tiến nhất định trong việc ban hành các chính sách bảo vệ môi trường, tuy nhiên, việc thúc đẩy kế toán xanh - một công cụ quan trọng để quản lý chi phí và lợi ích môi trường vẫn chưa thực sự được chú trọng đúng mức. Các chính sách và hướng dẫn liên quan đến kế toán môi trường hiện tại chưa đầy đủ và không cung cấp sự rõ ràng cho các DN trong việc áp dụng thực tiễn. Điều này tạo ra những rào cản không nhỏ trong việc tích hợp các yếu tố môi trường vào hệ thống quản lý tài chính của DN, khiến kế toán xanh không trở thành một phần bắt buộc hoặc thậm chí không được ưu tiên trong chiến lược quản lý của nhiều DN.

5.2.2. Khoảng trống trong chế độ kế toán hiện hành:

Chế độ kế toán hiện hành chưa có các văn bản hướng dẫn DN trong việc bóc tách và theo dõi chi phí sản xuất kinh doanh, chưa có các tài khoản cần thiết để hạch toán các khoản chi phí môi trường, chưa có tài khoản riêng để phản ánh kế toán xanh,… Điều này dẫn đến sự thiếu nhất quán trong việc áp dụng kế toán xanh giữa các DN, thậm chí những DN lớn và có tiềm lực tài chính cũng gặp khó khăn trong việc triển khai. Các quy định liên quan đến kế toán môi trường hiện nay chỉ tập trung vào một số ngành công nghiệp cụ thể, như sản xuất và khai thác tài nguyên thiên nhiên, nhưng các ngành khác như dịch vụ hay công nghệ, chưa có sự yêu cầu rõ ràng hoặc bắt buộc. Điều này khiến việc áp dụng kế toán xanh trở nên phân tán và không đồng đều giữa các ngành kinh tế, làm giảm hiệu quả của các chính sách bảo vệ môi trường mà Chính phủ đặt ra.

5.2.3. Thiếu chính sách khuyến khích tài chính:

Sự thiếu hụt các cơ chế khuyến khích về tài chính cũng là một trong những lý do quan trọng khiến DN chưa mặn mà với kế toán xanh. Hiện nay, nhiều DN Việt Nam, đặc biệt là các DN nhỏ và vừa, đối diện với thách thức về tài chính và nhân lực để triển khai các quy trình kế toán môi trường. Thay vì nhận được hỗ trợ tài chính hay ưu đãi thuế từ Nhà nước khi tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi trường, nhiều DN phải tự gánh chịu toàn bộ chi phí liên quan đến việc tích hợp kế toán xanh. Điều này làm giảm động lực để các DN tham gia và đầu tư vào lĩnh vực này.

Một trong những hình thức hỗ trợ phổ biến mà các quốc gia tiên tiến áp dụng, là cung cấp các khoản tài trợ hoặc giảm thuế cho những DN có nỗ lực trong việc giảm thiểu tác động môi trường. Tuy nhiên, ở Việt Nam, những chính sách như vậy vẫn còn khá hạn chế. DN có thể thấy rằng, chi phí để triển khai kế toán xanh cao hơn lợi ích mà họ thu được từ việc làm này, khiến nhiều DN, đặc biệt là các DN nhỏ, cảm thấy việc áp dụng kế toán xanh là không khả thi về mặt kinh tế. Ví dụ, một DN trong lĩnh vực sản xuất có thể phải đầu tư vào các hệ thống đo lường và báo cáo lượng phát thải hoặc sử dụng các công nghệ sạch hơn, nhưng lại không nhận được sự hỗ trợ từ phía Nhà nước dưới hình thức giảm thuế hoặc các chính sách hỗ trợ khác. Do đó, họ phải cân nhắc giữa lợi ích ngắn hạn và mục tiêu dài hạn về phát triển bền vững, mà thường thì lợi ích ngắn hạn về tài chính sẽ được ưu tiên.

Việc thiếu chính sách hỗ trợ cũng khiến kế toán xanh chưa thể phát triển mạnh mẽ trong bối cảnh các DN còn bận tâm với những thách thức khác, như cạnh tranh thị trường, cải thiện năng suất lao động hay tìm kiếm các giải pháp tăng trưởng doanh thu. Môi trường pháp lý không khuyến khích và thiếu các quy định rõ ràng về kế toán xanh, làm cho việc tích hợp các yếu tố môi trường vào chiến lược quản lý của DN trở nên không ưu tiên. Điều này càng trở nên khó khăn đối với các DN nhỏ và vừa, những đơn vị luôn phải đối mặt với vấn đề về nguồn lực hạn chế.

5.2.4. Hạn chế trong yêu cầu công khai minh bạch

Hệ thống pháp luật về kế toán tại Việt Nam hiện nay vẫn chưa bao gồm các quy định chặt chẽ về việc yêu cầu DN phải công khai các chi phí liên quan đến bảo vệ môi trường hoặc trách nhiệm xã hội. Ở nhiều quốc gia phát triển, các quy định bắt buộc về việc minh bạch chi phí môi trường trong báo cáo tài chính đã được áp dụng rộng rãi, nhằm tạo ra sự minh bạch và giúp cộng đồng hiểu rõ hơn về trách nhiệm môi trường của DN. Tuy nhiên, tại Việt Nam, các yêu cầu như vậy vẫn còn thiếu hoặc chưa thực sự được triển khai hiệu quả. Điều này không chỉ làm giảm áp lực đối với DN trong việc tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường, mà còn làm mất đi sự minh bạch, làm cho kế toán xanh trở thành một khái niệm khó áp dụng trong thực tế.

5.3. Về mặt kỹ thuật tính toán

Việc ghi nhận thu nhập và chi phí từ môi trường không phải là điều dễ dàng, do nguồn thu và các khoản chi cho môi trường rất khó đo lường được theo các khía cạnh số liệu của tài chính kế toán, mang tính chất ẩn, liên quan đến tương lai và những nhân tố vô hình khác nên thu nhập, chi phí và giá bán của sản phẩm, dịch vụ thường được xác định không đúng, ngoài ra hệ thống tài khoản kế toán chưa đủ nhiều để phục vụ việc hạch toán các vấn đề liên quan đến môi trường, vì vậy, các DN sản xuất vẫn còn chần chừ trong việc áp dụng mô hình kế toán xanh.

5.4. Về mặt nguồn lực

Hiện nay, hầu hết các DN đều chưa đủ nguồn lực về nhân sự, tài chính, trang thiết bị, đào tạo kiến thức,… để triển khai thực hiện hệ thống kế toán xanh, nguyên nhân chính dẫn đến việc này là do các DN nhận thức về kế toán xanh còn hạn chế.

Việc không được trang bị đầy đủ kiến thức, năng lực quản lý về kế toán xanh khiến cho các DN gặp khó khăn trong việc tích hợp các yếu tố môi trường vào hoạt động kinh doanh của mình. Ngoài ra, trong bối cảnh mà các DN đang đối mặt với nhiều áp lực về chi phí và cạnh tranh, việc đầu tư vào hệ thống kế toán xanh thường bị xem là không khả thi. Họ có thể e ngại rằng, việc này sẽ làm gia tăng chi phí ngắn hạn mà không thấy được những lợi ích lâu dài. Vấn đề nhận thức còn thể hiện rõ hơn ở những DN nhỏ và vừa, nơi mà nguồn lực hạn chế và sự thiếu thông tin về kế toán xanh trở thành một thách thức lớn. Họ có thể không đủ khả năng để đầu tư vào các công nghệ và hệ thống mới, do đó tiếp tục duy trì phương pháp kế toán truyền thống mà không xem xét đến các yếu tố môi trường.

6. Giải pháp

Lợi ích của kế toán xanh chúng ta đều thấy rõ, vấn đề đặt ra là cần phải có các giải pháp để tăng cường việc áp dụng kế toán xanh tại các DN. Sau đây là một số giải pháp:

6.1. Thứ nhất, nâng cao nhận thức của DN

Chính phủ, các bộ ngành, địa phương, hiệp hội DN, các hiệp hộp có liên quan,… cần nâng cao nhận thức của DN về vai trò và lợi ích của kế toán xanh, thông qua việc tổ chức các chương trình đào tạo, hội thảo và truyền thông về kế toán môi trường. Những hoạt động này không chỉ giúp DN hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của việc quản lý tác động môi trường trong hoạt động kinh doanh, mà còn tạo ra những câu chuyện thành công để khuyến khích các DN khác tham gia.

Việc tăng cường nhận thức cũng nên được mở rộng đến cộng đồng và xã hội, nhằm tạo ra một môi trường ủng hộ cho các DN xanh. Các tổ chức phi chính phủ có thể tổ chức các chiến dịch truyền thông, nâng cao ý thức của người tiêu dùng về các sản phẩm và dịch vụ thân thiện với môi trường, từ đó tạo động lực cho DN áp dụng kế toán xanh.

6.2. Thứ hai, xây dựng chính sách khuyến khích

Các bộ ngành, địa phương, hiệp hội DN, các hiệp hộp có liên quan,… đề xuất Chính phủ cần ban hành các chính sách khuyến khích và hỗ trợ tài chính cho DN trong việc triển khai kế toán xanh. Cụ thể, có thể áp dụng các chính sách giảm thuế cho những DN có thành tích tốt trong bảo vệ môi trường. Chính phủ cũng có thể cân nhắc việc cung cấp các khoản trợ cấp tài chính cho các dự án nghiên cứu và phát triển liên quan đến kế toán xanh. Việc hỗ trợ vay vốn ưu đãi cho DN đang áp dụng công nghệ xanh cũng là một cách hiệu quả để tạo động lực cho họ.

Ngoài ra, cần có các quy định cụ thể về việc báo cáo môi trường trong hệ thống kế toán DN. Việc thiết lập các tiêu chuẩn báo cáo rõ ràng, sẽ giúp DN dễ dàng hơn trong việc tuân thủ và minh bạch hóa thông tin liên quan đến tác động môi trường của họ. Điều này cũng tạo điều kiện cho nhà đầu tư và khách hàng đánh giá chính xác hơn về cam kết của DN đối với phát triển bền vững.

6.3. Thứ ba, đầu tư nguồn lực và quản lý nguồn lực

Để áp dụng kế toán xanh hiệu quả, DN cần đầu tư vào nguồn nhân lực có chuyên môn về kế toán môi trường và quản lý tài nguyên. Các chương trình đào tạo và nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý và nhân viên kế toán là điều cần thiết, để đảm bảo DN có thể thực hiện kế toán xanh một cách hiệu quả. Việc phát triển các chương trình đào tạo liên kết với các trường đại học và viện nghiên cứu có thể tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành kế toán xanh.

Ngoài ra, cần đầu tư trang thiết bị cần thiết và phát triển các công cụ và phần mềm hỗ trợ trong việc đo lường và báo cáo tác động môi trường trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Các DN có thể hợp tác với các công ty công nghệ để phát triển các giải pháp công nghệ thông tin phù hợp, từ đó giúp tối ưu hóa quy trình kế toán và giảm thiểu sai sót. Việc ứng dụng công nghệ hiện đại như trí tuệ nhân tạo (AI) và dữ liệu lớn (Big Data) cũng có thể giúp DN phân tích sâu hơn về tác động môi trường và đưa ra quyết định đúng đắn hơn.

6.4. Thứ tư, đưa kế toán xanh vào trong chiến lược phát triển DN

Kế toán xanh không nên chỉ được xem là một công cụ quản lý môi trường mà cần được đưa vào chiến lược phát triển dài hạn của DN, các DN cần xây dựng các kế hoạch phát triển bền vững, trong đó kế toán xanh đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá và kiểm soát tác động môi trường. Việc phát triển một chiến lược rõ ràng giúp DN xác định các mục tiêu cụ thể, từ đó có kế hoạch hành động rõ ràng để đạt được những mục tiêu này.

Hơn nữa, việc đưa kế toán xanh vào chiến lược kinh doanh cũng giúp DN tối ưu hóa hiệu quả tài chính và nâng cao khả năng cạnh tranh. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, những DN chú trọng đến trách nhiệm xã hội và bảo vệ môi trường thường có hiệu suất tài chính tốt hơn trong dài hạn. Vì vậy, việc áp dụng kế toán xanh không chỉ mang lại lợi ích về mặt môi trường, mà còn là một quyết định khôn ngoan về mặt kinh doanh.

6.5. Thứ năm, sự phối hợp của các chủ thể có liên quan

Cuối cùng, việc tăng cường phối hợp giữa các chủ thể có liên quan, bao gồm chính phủ, các bộ ngành, địa phương, hiệp hội DN, các hiệp hộp có liên quan, DN và các tổ chức phi chính phủ, sẽ giúp xây dựng một môi trường thuận lợi cho sự phát triển của kế toán xanh. Các sáng kiến hợp tác này có thể bao gồm việc tổ chức các diễn đàn thảo luận, chia sẻ kinh nghiệm và kiến thức, cũng như phát triển các dự án thử nghiệm về kế toán xanh. Sự phối hợp này không chỉ giúp lan tỏa kiến thức, mà còn tạo ra một mạng lưới hỗ trợ mạnh mẽ cho các DN trong quá trình áp dụng kế toán xanh. Ngoài ra, các tổ chức quốc tế và khu vực cũng có thể hỗ trợ Việt Nam trong việc phát triển kế toán xanh thông qua các chương trình hợp tác kỹ thuật, tài trợ dự án và chuyển giao công nghệ. Việc tham gia vào các tổ chức quốc tế, cũng giúp Việt Nam học hỏi và tiếp cận các kinh nghiệm trong lĩnh vực kế toán xanh từ các quốc gia khác.

Nói tóm lại, từ năm giải pháp trên sẽ đảm bảo lợi ích hài hòa giữa mục tiêu kinh doanh của DN và trách nhiệm bảo vệ môi trường của DN. Đồng thời, góp phần quan trọng trong thực hiện “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn 2050” nhằm hướng tới nền kinh tế xanh và tăng trưởng nhanh.

 

Tài liệu tham khảo

Bộ Tài nguyên và môi trường. (2016, 2020). Báo cáo hiện trạng môi trường quốc gia giai đoạn 2011 - 2015 và giai đoạn 2016 - 2020.

Nguyễn Phú Giang. (2020). Nghiên cứu KTMT trong các DN sản xuất ở Việt Nam đáp ứng phát triển bền vững. Đề tài nghiên cứu khoa học.

Nguyễn Thị Kim Tuyến. (2020). KTMT tại các DN khai thác khoáng sản trên địa bàn Bình Định. Luận án Tiến sỹ.

Ngô Thị Thu Hồng. (2023). Phát triển KTMT trong các DN ở Việt Nam. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ năm 2022. Mã số: BTC/ĐT/2022-09.

Hoàng Thị Hồng Vân. (2022). Các yếu tố ảnh hưởng đến thúc đẩy áp dụng kế toán xanh tại Việt Nam, Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng, số 241, tháng 6/2022, 72-84.

Nguyễn Thị Hải Vân. (2018). Thúc đẩy ứng dụng kế toán xanh ở Việt Nam, truy cập từ https://tapchitaichinh.vn/thuc-day-ung-dung-ke-toan-xanh-o-viet-nam.html.

Ninh Thị Thúy Ngân. (2024). Áp dụng kế toán xanh ở Việt Nam và một số vấn đề đặt ra, Kỷ yếu hội thảo khoa học kế toán xanh trong xu thế phát triển bền vững, Nxb Tài chính, 163-169.

Trần Anh Quang. (2024). Vận dụng kế toán xanh trong xu thế phát triển bền vững, Kỷ yếu hội thảo khoa học kế toán xanh trong xu thế phát triển bền vững, Nxb Tài chính, 4-8.

Trần Hải Long & Lê Thị Hương. (2022). Phát triển kế toán xanh trong các DN ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu tài chính kế toán, 5(226).

Dương Thu Minh. (2024). Tăng cường vận dụng kế toán xanh trong các DN Việt Nam, truy cập từ https://kinhtevadubao.vn/tang-cuong-van-dung-ke-toan-xanh-trong-cac-doanh-nghiep-viet-nam-29915.html.

Ngô Thế Chi & Đào Ngọc Hà. (2024). Thực hiện kế toán xanh ở Việt Nam: Thuận lợi, khó khăn và giải pháp, truy cập từ http://vaa.net.vn/thuc-hien-ke-toan-xanh-o-viet-nam-thuan-loi-kho-khan-va-giai-phap/.

Nguyễn Danh Nam. (2025). Đo lường các yếu tố ảnh hưởng đến ý định áp dụng kế toán xanh trong các DN sản xuất tại thành phố Hà Nội, truy cập từ https://www.quanlynhanuoc.vn/2025/01/16/do-luong-cac-yeu-to-anh-huong-den-y-dinh-ap-dung-ke-toan-xanh-trong-cac-doanh-nghiep-san-xuat-tai-thanh-pho-ha-noi/.

Aziz Ansari “KTMT và chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS)”.

Barbu, E. M., Dumontier, P., Feleaga, N., & Feleaga, L. (2014). A proposal of an international environmental reporting grid: What interest for policymakers, regulatory bodies, companies, and researchers?: Reply to discussion of mandatory environmental disclosures by companies complying with IAS/IFRS: The Case of France, Germany and the UK. The International Journal of Accounting, 49(2), 253-262.

Boutilier, Robert. (2017). Stakeholder: Social Capital, Sustainable Develoment, and Coporation, Routledge.

Buch-Hansen, Mogens. (1997). Environment-a Liability and an Asset for Economic Develoment: Some Views on Environmental with Economic Delopment in Bhutan. International Journal of Sustainable Development & World Ecology 4, No.1: 17-27.

ThS. Phùng Văn Thái

URL: https://tapchiketoankiemtoan.vn/ke-toan-xanh-khai-niem-thuc-trang-va-giai-phap-tai-cac-doanh-nghiep-viet-nam-d5123.html

© tapchiketoankiemtoan.vn

Hotline: 098 1696069

  • Tin hiệp hội
  • Tin trong nước
  • Nghiên cứu trao đổi
  • Diễn đàn kế toán
  • Nghiệp vụ
  • Tin Quốc tế
  • Chính sách mới

Thông tin hiệp hội

Cơ quan chủ quản

Hiệp hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam

Trụ sở: Tầng 1 toà New Center số 27 ngõ 26 phố Đỗ Quang, Phường Yên Hòa, Thành phố Hà Nội

Thông tin tạp chí

Giấy phép hoạt động báo điện tử: QĐ số: 540/GP-BTTTT của Bộ thông Tin và Truyền Thông cấp ngày 23/08/2021; Số: 05/TTKHCN-ISSN của Cục thông tin Khoa học và Công nghệ quốc gia cấp ngày 14/02/2023

Tổng Biên Tập: ThS.Tạ Đức Toàn

Phó Tổng Biên Tập: ThS. Đàm Thị Lệ Dung

Thư ký tòa soạn: Nguyễn Huyền Thương

Trụ sở: Tầng 1 toà New Center số 27 ngõ 26 phố Đỗ Quang, Phường Yên Hòa, Thành phố Hà Nội

Thông tin liên hệ

Email nhận bài Tạp chí in: banbientapvaa@gmail.com

Liên hệ truyền thông: truyenthongaav@gmail.com

Hotline: 098 169 6069
Cấm sao chép dưới mọi hình thức trên TẠP CHÍ ĐIỆN TỬ KẾ TOÁN VÀ KIỂM TOÁN, nếu không có sự chấp thuận bằng văn bản.
Coppyright © 2022 TẠP CHÍ ĐIỆN TỬ KẾ TOÁN VÀ KIỂM TOÁN. All rights reserved.