Tóm tắt, bài viết tập trung phân tích thực trạng phát triển các mô hình liên kết sản xuất trong nông nghiệp tại xã Châu Phú, tỉnh An Giang. Đánh giá kết quả thực hiện so với quy hoạch, những vấn đề hạn chế, và đề xuất giải pháp để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế bền vững tại địa phương trong thời gian tới.
1.
Đặt
vấn đề
Châu Phú là xã đồng bằng thuộc tứ giác Long Xuyên, nằm ở phía Tây Sông Hậu; thuộc khu vực trung tâm giáp ranh phường Long Xuyên của tỉnh An Giang, có vị trí đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; lưu thông thuận tiện cả đường bộ thông qua Quốc lộ 91 và đường thủy qua Sông Hậu với chiều dài hơn 33 km, là cầu nối quan trọng giữa phường Long Xuyên và Châu Đốc.
Sản xuất nông nghiệp được khẳng định giữ vai trò nền tảng trong phát triển kinh tế. Thời gian qua, chuyển dịch cơ cấu nội ngành nông nghiệp đạt hiệu quả tích cực, từng bước hình thành vùng sản xuất theo các chuỗi giá trị sản phẩm lương thực, nông sản chủ lực của như lúa, cá tra, cây ăn quả, rau màu…, giá trị sản xuất ngành nông nghiệp tiếp tục tăng. Với sự quan tâm chỉ đạo của Đảng ủy, UBND, sự nỗ lực của các ngành, các cấp và sự tích cực tham gia sản xuất của nhân dân, sản xuất nông nghiệp đã vượt qua những khó khăn, đạt được nhiều kết quả quan trọng, trong đó có phát triển mạnh các mô hình liên kết kinh tế, hướng đến xây dựng nền nông nghiệp bền vững trên địa bàn.
2. Kết quả thực hiện các mô hình
liên kết sản xuất nông nghiệp, định hướng phát triển kinh tế bền vững trên địa
bàn xã Châu Phú
Nhằm tạo sự đột phá trong phát triển các mô hình liên kết sản xuất nông nghiệpThực hiện Kế hoạch Số: 157/KH-UBND của Ủy ban Nhân dân huyện Châu Phú ngày 31 tháng 12 năm 2020 (địa giới hành chính cũ) “về Tiếp tục thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp và đẩy mạnh áp dụng công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp gắn với các vùng sản xuất tập trung, kêu gọi đầu tư công nghiệp chế biến để nâng cao giá trị sản xuất trong nông nghiệp giai đoạn 2021-2025”. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật theo hướng công nghệ cao nhằm nâng cao giá trị, hiệu quả và khả năng cạnh tranh từ các sản phẩm chủ lực theo cơ cấu “lúa - cá - cây ăn trái - rau màu”.
Đến hiện tại Xã đã hình thành được 10 vùng sản xuất tập trung trên các lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản; Trong đó nổi bật có 03 vùng sản xuất tập trung được doanh nghiệp đầu tư theo hướng công nghệ mới, ứng dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất đạt theo yêu cầu của Nghị quyết đề ra như: Vùng nuôi thủy sản của Công ty TNHH Nam Việt Bình Phú; Vùng nuôi thủy sản của Công ty TNHH Phát triển Lộc Kim Chi xã Mỹ Phú; Trang trại nuôi gia cầm công nghệ cao Châu Phú ở xã Mỹ Phú, cụ thể:
Vùng nuôi trồng thủy sản của Công ty TNHH Nam Việt Bình Phú, với quy mô 600 ha, tổng vốn đầu tư 4.000 tỷ đồng, là một trong những vùng nuôi trồng lớn nhất Đồng Bằng Sông Cửu Long. Dự án được chia thành 2 khu: (1) Khu sản xuất giống cá tra 3 cấp chất lượng cao có diện tích nuôi 150ha, vốn đầu tư 1.000 tỷ đồng, hiện cung cấp ra thị trường cá tra giống chất lượng cao khoảng 13.500 tấn/năm phục vụ cho người nuôi địa bàn những con giống cá tra khỏe, sạch bệnh, góp phần giúp người dân nuôi cá đạt hiệu quả kinh tế cao. (2) Khu Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao nuôi cá tra thương phẩm, có diện tích 450ha, vốn đầu tư 3.000 tỷ đồng, hiện sản xuất khoảng 114.750 tấn/năm cá tra nguyên liệu chất lượng cao, phục vụ chế biến xuất khẩu…
Ngoài ra còn thực hiện thêm 09 vùng sản xuất tập trung khác, mời gọi được các doanh nghiệp liên kết sản xuất và thu mua sản phẩm. Cơ cấu cây trồng từng bước chuyển đổi, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, cấp mã số vùng trồng, truy xuất nguồn gốc đảm bảo tính trách nhiệm minh bạch và chất lượng sản phẩm, hỗ trợ xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm nông sản chủ lực gắn với thực hiện Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP), giá trị sản xuất 1 ha đất nông nghiệp tăng từ 185 triệu đồng/ha năm 2020 lên 201,1 triệu đồng/ha năm 2022, Thành lập mới Hợp tác xã được hợp tác xã Thương mại – Dịch vụ - Nông nghiệp Phước Lộc Thạnh và đã được cấp mã số vùng trồng; Mời gọi Công ty Cổ phần Non Nước ký hợp đồng thu mua 14 ha, lợi nhuận bước đầu thu được 630-653 triệu đồng/ha/năm (cao hơn sản xuất lúa gấp 10 lần); Từng bước hoàn thiện hạ tầng với việc đầu tư nạo vét kết hợp nâng cấp đường nội đồng (ngã tư) Tư Tản, mương Phèn với kinh phí 4.141 triệu đồng.
Vùng trồng nhãn xuồng Khánh Hòa tại tiểu vùng Bắc Cây Sung thuộc ấp Khánh An, Khánh Mỹ; Vùng sản xuất nhãn Mỹ Đức tại vùng Cánh đồng nhỏ thuộc ấp Mỹ Phó, xã Mỹ Đức; Vùng sản xuất rau màu tập trung tạm vùng lòng hồ Khánh Phát và vùng lung Khánh Mỹ là vùng chuyên canh sản xuất rau màu; Vùng sản xuất cá lóc giống theo tiêu chuẩn Global.G.A.P tại vùng Cần Thảo - Kênh 3 - kênh Bộ Đội - mương 500 tại ấp Mỹ Quý, xã Mỹ Phú. Ước đến nay phát triển được 75/100 ha; Vùng nuôi lươn theo tiêu chuẩn Viet.G.A.P 10 ha tại vùng Kênh 8 - Kênh 9 - đường 945 cũ - đường 945 mới thuộc ấp Mỹ Bình, xã Thạnh Mỹ Tây.
3. Nguyên nhân đạt được
3.1. Nguyên nhân khách quan
Châu Phú là Xã có vị trí thuận lợi về giao thông, là cầu nối quan trọng giữa phường Long Xuyên và phường Châu Đốc; là xã có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Có sự đoàn kết thống nhất giữa Đảng, chính quyền và nhân dân trong thực hiện mục tiêu phát triển nông nghiệp theo hướng hiện đại, phát triển các kênh phân phối sản phẩm nông nghiệp lớn trong cả nước, chú trọng phát triển các vùng sản xuất tập trung, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp. Qua đó gia tăng sự đồng nhất về chất lượng nông sản và đáp ứng điều kiện về quy mô theo yêu cầu của thị trường.
3.2. Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, Tác động tích cực của chính sách quy hoạch đối với việc phát triển các mô hình liên kết kinh tế hướng đến xây dựng nền nông nghiệp bền vững tại địa phương.
Chính quyền địa phương có quyết tâm rất cao trong thực hiện chủ trương phát triển các mô hình liên kết kinh tế nhằm cơ cấu và định hướng cho sự phát triển nông nghiệp bền vững trong giai đoạn mới. Đây được xem là động lực rất lớn để đi đến thực hiện thành công Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ XII, nhiệm kỳ 2020 – 2025 của địa phương. Với mục tiêu giải quyết đầu ra cho sản phẩm, tạo mối liên kết sản xuất với người dân trong vùng xây dựng chuỗi giá trị trong sản xuất, đầu tư đồng bộ hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng nông nghiệp đáp ứng yêu cầu sản xuất tập trung tạo ra sản phẩm chất lượng, xây dựng thương hiệu sản phẩm hướng tới xuất khẩu.
Trong công tác quy hoạch, địa phương đã nêu chi tiết, cụ thể phương hướng, nguồn lực, thời gian thực hiện các mô hình, liên kết vùng sản xuất, nuôi trồng trong lĩnh vực nông nghiệp. Đây là cơ sở rất quan trọng để đánh giá xem xét tính khả thi, tính hiệu quả và tỷ lệ thành công để thực hiện các mô hình kết trong thực tiễn. Phần lớn các mô hình liên kết thực hiện theo kế hoạch, góp phần đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp trên địa bàn theo hướng bền vững, đời sống người dân đã thay đổi theo chiều hướng tích cực.
Thứ hai, Các tiến bộ khoa học kỹ thuật được ứng dụng vào sản xuất được chính quyền, người dân rất quan tâm, tăng cường công tác tổ chức tập huấn, khuyến nông. Một số vùng sản xuất tập trung bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế cao, nhận thức của người dân từng bước được nâng lên, các tổ hợp tác, hợp tác xã trồng cây ăn quả tăng về số lượng và diện tích sản xuất.
Thứ ba, Nhiều chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng, tạo quỹ đất,…và bằng sự thân thiện trong mời gọi đầu tư với nhiều giải pháp cụ thể, đã thúc đẩy liên kết, hợp tác giữa nông nghiệp và nông dân, giải quyết bài toán giữa sản xuất – chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Từ đó, ngày càng có nhiều doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, toàn Xã đã thu hút 07 dự án đầu tư vào nông nghiệp, với tổng vốn đăng ký trên 5.780 tỷ đồng.
Bước đầu có nhiều Công ty đến địa bàn xã tham gia triển khai ký kết hợp đồng như Công ty TNHH Nam Việt, Công ty CP Việt Nam, Lộc Kim Chi, Công ty Cổ phần Non Nước, Công ty TNHH Mỹ Luông 689,…
Thứ tư, Ngành nông nghiệp xã đẩy mạnh công tác tuyên truyền người dân tham gia tổ liên kết sản xuất, hợp tác xã để đảm bảo quyền lợi cho nông dân khi tham gia chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Đặc biệt, chú trọng hình thức tuyên truyền giữa nông dân với nông dân thông qua các buổi sinh hoạt của câu lạc bộ nông dân, hợp tác xã, tổ hợp tác, nhằm thay đổi tư duy của người dân về phương thức sản xuất và tiêu thụ hàng hóa theo hướng bền vững.
Thứ năm, Xã đã tập trung mạnh mẽ trong việc đầu tư nâng cấp các công trình mang tính đột phá như: cải tạo hệ thống giao thông thuộc khu vực đô thị Thị trấn Cái Dầu tương xứng với đô thị loại IV; Đường Nam Cần Thảo, công trình có vị trí điểm đầu từ QL 91 đến điểm cuối là cầu sắt bắt qua rừng tràm Trà Sư xã Tịnh Biên với chiều dài 20,60 km; Nâng cấp mở rộng đường Đông Kênh 7,…Vì vậy đã tạo điều kiện thuận lợi để thu hút nhiều dự án đầu tư phát triển nông nghiệp, các liên kết sản xuất tiêu thụ trong thời gian qua, góp phần thực hiện hiệu quả mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương, bộ mặt nông thôn nhiều thay đổi, tạo đà cho sự phát triển trong thời gian tới.
4. Khó khăn, thách thức đặt ra
Một là, Chưa thực hiện đúng quy hoạch đã đề ra, vẫn còn 04 vùng sản xuất tập trung đã triển khai tuy nhiên chưa thực hiện được như: Vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ mới (cây Đinh lăng, cây Sả, nhãn Phát Tài, chà là,…) kết hợp điện năng lượng mặt trời tại vùng Đông kênh 13 - Đông kênh Ranh Tịnh Biên - Bắc Cần Thảo - Tây kênh 12 với diện tích 200 ha thuộc ấp Long Thuận, xã Ô Long Vĩ; Vùng chăn nuôi heo công nghệ cao xã Mỹ Phú; Vùng sản xuất lúa giống nguyên chủng tại Vĩnh Thạnh Trung, Đào Hữu Cảnh.
Hai là, Tái cơ cấu ngành nông nghiệp trên địa bàn mặc dù có chuyển biến tích cực, nhưng chưa thật sự rõ nét, tăng trưởng ngành nông nghiệp của xã chưa cân đối, thiếu bền vững và tốc độ chuyển dịch nội ngành còn chậm; số doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn chưa nhiều.
Ba là, Thị trường tiêu thụ, sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp còn chưa ổn định; chất lượng sản phẩm chưa thật sự đáp ứng yêu cầu cao của thị trường, chưa đảm bảo các điều kiện để phát triển bền vững; việc xây dựng và phát triển thương hiệu, giải quyết đầu ra cho sản phẩm nông sản chủ lực của xã còn hạn chế.
Bốn là, Chính sách hỗ trợ vốn, cho người dân trong việc chuyển đổi chưa nhiều ít được tiếp cận, trong khi kinh phí đầu tư khi thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi là khá lớn.
5. Giải pháp phát triển các mô hình liên kết sản xuất nông nghiệp hướng đến xây dựng nền nông nghiệp bền vững trên địa bàn xã châu phú đến năm 2030
Để tiếp tục phát huy những thành tựu đã đạt được, khắc phục những tồn tại đang đặt ra, thì trong thời gian tới cần tập trung một số giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức của các cấp ngành, người dân và doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ về liên kết kinh tế và hiệu quả liên kết kinh tế, tính tất yếu hướng đến sự phát triển bền vững trong xu thế mới. Từ đó chủ động tìm kiếm, lựa chọn và thiết lập các mối liên kết phù hợp ở nhiều lĩnh vực khác nhau như liên kết sản xuất – tiêu thụ, liên kết về thị trường, liên kết trong chuỗi giá trị nông sản.
Thứ hai, tổng kết các mô hình liên kết thành công để rút kinh nghiệm cho việc tìm kiếm, lựa chọn các mô hình liên kết thích hợp với quy mô và trình độ phát triển của từng ngành hàng tại địa phương. Nghiên cứu kỹ, bám sát kế hoạch quy hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch số 157/KH-UBND, soát xét sự phù hợp và chưa phù hợp trong giai đoạn hiện tại, cần thiết có sự điều chỉnh kịp thời. Một số vùng sản xuất tập trung chưa thể triển khai được, hoặc triển khai nhưng chưa thành công, phân tích các yếu tố tác động là khách quan hay chủ quan, đâu là yếu tố cốt lõi, cần đánh giá và xem xét cụ thể, nếu liên quan đến tài chính, thì phương án tháo gỡ như thế nào, từ nguồn xã hội hóa, ngân sách địa phương, ngân sách tỉnh, vay,... Nếu là nguồn lực con người, trình độ, chuyên môn cán bộ triển khai kế hoạch, hay từ phía người dân chưa mạnh thay đổi tư duy sản xuất, đưa ra phương án thuyết phục, tuyên truyền, vận động để người dân mạnh dạng chủ động thực hiện,...
Thứ ba, triển khai và tổ chức thực hiện có hiệu quả Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 05/7/2018 của Chính phủ về Chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp; Nghị quyết số 23/2022/NQ-HĐND ngày 11 tháng 11 năm 2022 của HĐND tỉnh An Giang về Sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trên địa bàn tỉnh An Giang ban hành kèm theo Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐND ngày 12 tháng 7 năm 2019 của Hội đồng nhân dân tỉnh về ban hành Quy định chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trên địa bàn tỉnh An Giang.
Thứ tư, tiếp tục hỗ trợ thành lập và phát triển các mô hình HTX, THT mới, đặc biệt là HTX cây ăn quả, rau màu,…được xem như là một mắt xích quan trọng đảm bảo thực hiện hiệu quả các liên kết kinh tế.
Thứ năm, cần chuẩn hóa quy trình sản xuất, từ khâu chọn giống, kỹ thuật nuôi, trồng, thu hoạch, bảo quản,... đảm bảo về chất lượng và số lượng sản phẩm theo các hợp đồng liên kết, tăng tính bền vững của các liên kết kinh tế trong sản xuất nông nghiệp. Đây là cơ sở quan trọng để xây dựng thương hiệu, quảng bá sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm nông nghiệp trên địa bàn.
Thứ sáu, lồng ghép xúc tiến đầu tư với xúc tiến thương mại, du lịch để giới thiệu môi trường đầu tư, liên kết hợp tác đầu tư kinh doanh phát triển sản phẩm nông nghiệp, nông thôn.
Thứ bảy, tăng cường hỗ trợ Công ty, Doanh nghiệp trong tìm kiếm thị trường, đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp theo yêu cầu của thị trường và có giá trị gia tăng cao. Đồng thời Doanh nghiệp, Công ty tham gia thực hiện phải cung ứng vật tư, dịch vụ đầu vào phục vụ sản xuất, hỗ trợ kỹ thuật và tiêu thụ nông sản cho nông dân nhằm giảm giá thành sản xuất, góp phần gia tăng lợi nhuận, nhằm liên kết lâu dài và bền vững.
Thứ tám, ngành chức năng hỗ trợ, phối hợp mời gọi các Công ty, doanh nghiệp đầu tư vào các vùng sản xuất tập trung nhằm thu hút nông dân nhiệt tình tham gia trong thời gian tới.
Thứ chín, hỗ trợ các hộ sản xuất nông nghiệp, hộ kinh doanh cá thể, HTX, tổ hợp tác, doanh nghiệp đăng ký tham gia các sàn thương mại điện tử để kết nối, quảng bá, giới thiệu sản phẩm, mở rộng thêm các kênh phân phối mới, mở rộng thị trường trong nước và quốc tế.
Thứ mười, hỗ trợ các vùng sản xuất tập trung được cấp mã số vùng trồng, truy xuất nguồn gốc đảm bảo tính trách nhiệm, chất lượng sản phẩm và xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm nông sản chủ lực, tập trung ba nhóm sản phẩm là gạo, thủy sản và cây ăn quả, gắn với thực hiện Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP).
Thứ mười một, tiếp tục đầu tư cải tạo, nâng cấp, sửa chữa hệ thống thủy lợi đồng bộ, hoàn chỉnh, đa mục tiêu, bao gồm các công trình tưới và tiêu chủ động đáp ứng yêu cầu phát triển ổn định, bền vững.
Thứ mười hai, huy động tốt các nguồn lực để đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ thủy sản để tạo ra những vùng sản xuất lớn, tập trung.
Tóm lại, với điều kiện
thuận lợi về thổ nhưỡng, vị trí địa lý, sự quan tâm của Đảng ủy, Chính quyền và
các Tổ chức Chính trị xã hội, xã Châu Phú có đủ tiềm năng để phát triển các mô
hình liên kết kinh tế hướng đến nền nông nghiệp bền vững trong nông nghiệp. Thành
tựu bước đầu trong việc định hình, quy hoạch phát triển các liên kết sản xuất –
tiêu thụ, các vùng sản xuất tập trung cho thấy chính quyền tại địa phương rất
có quyết tâm thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu nội ngành nông nghiệp theo
hướng tiến bộ phù hợp với xu thế phát triển nông nghiệp hiện đại. Có sự đồng
thuận của người dân nhằm tích cực thực hiện chủ trương của tỉnh, và trung ương
về chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nên các mô hình liên kết kinh tế bước đầu đã
được hình thành và đạt được nhiều thành tựu rất khả quan, nhận thức của người
dân từng bước được nâng lên, các tổ hợp tác, hợp tác xã trồng cây ăn quả tăng
về số lượng và diện tích sản xuất. Kinh tế địa phương có chuyển biến tích cực. Một
lần nữa khẳng định chủ trương của Đảng và nhà nước trong phát triển các mô hình
liên kết kinh tế, kinh tế hợp tác trong sản xuất nông nghiệp là hướng đi đúng
đắn và phù hợp nhằm khắc phục yếu thế của nền sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ,
hướng đến phát triển nền nông nghiệp bền vững, góp phần nâng cao mức sống, chất
lượng cuộc sống cho người dân nông thôn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chính phủ (2018), Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 05/7/2018 về Chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.
2. HĐND (2020), Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ XII, nhiệm kỳ 2020 – 2025, huyện Châu Phú.
3. HĐND (2022), Nghị quyết số 23/2022/NQ-HĐND ngày 11 tháng 11 năm 2022 về Sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trên địa bàn tỉnh An Giang ban hành kèm theo Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐND ngày 12 tháng 7 năm 2019 của Hội đồng nhân dân tỉnh về ban hành Quy định chính sách hỗ trợ liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trên địa bàn tỉnh An Giang.
4. Ủy ban nhân dân huyện Châu Phú (2020). Kế hoạch Số 157/KH-UBND về “Tiếp tục thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp và đẩy mạnh áp dụng công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp gắn với các vùng sản xuất tập trung, kêu gọi đầu tư công nghiệp chế biến để nâng cao giá trị sản xuất trong nông nghiệp giai đoạn 2021-2025”.
5. Ủy ban nhân dân huyện Châu Phú (2023), Báo cáo số 168/BC-NN về “Kết quả sản xuất nông nghiệp năm 2023 và Phương hướng nhiệm vụ năm 2024”.
© tapchiketoankiemtoan.vn